| NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 
 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2015 | 
BÁO CÁO
Kết quả thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội
về chất vấn và trả lời chất vấn
Kính gửi: Các vị Đại biểu Quốc hội
Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động nghiên cứu, rà soát và triển khai quyết liệt những nội dung có liên quan đến hoạt động của ngành Ngân hàng. Kết quả triển khai đến nay như sau:
I. ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ1
1. Kết quả điều hành chính sách tiền tệ
Bám sát Nghị quyết của Quốc hội, kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô, điều kiện thị trường tiền tệ, từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến nay, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng thận trọng, hiệu quả, chủ động dẫn dắt thị trường; phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra nhằm góp phần tăng tính thanh khoản cho nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý, phù hợp với các cân đối vĩ mô đồng thời đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD). Các giải pháp chủ yếu và kết quả đạt được như sau:
- Điều hành quyết liệt, chủ động và đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết lượng tiền cung ứng phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Theo đó, kỷ luật, kỷ cương thị trường được củng cố vững chắc, thanh khoản của toàn hệ thống từng bước được ổn định và đảm bảo an toàn; thị trường tiền tệ ổn định và thông suốt; lạm phát từ mức 18,13% năm 2011 xuống 6,81% năm 2012, 6,04% năm 2013 và 1,84% năm 20142.
- Điều chỉnh giảm các mức lãi suất của NHNN trên cơ sở bám sát diễn biến vĩ mô, điều kiện thị trường tiền tệ để giảm lãi suất cho vay, tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh. Đến nay, mặt bằng lãi suất đã giảm mạnh theo mục tiêu đề ra của NHNN, chỉ bằng khoảng 40% lãi suất vào nửa cuối năm 2011 và thấp hơn mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006 là giai đoạn kinh tế phát triển ổn định, góp phần hỗ trợ giảm chi phí vốn vay của doanh nghiệp và hộ dân; lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 6-9%/năm, lãi suất cho vay trung và dài hạn ở mức 9-11%/năm, các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, có phương án/dự án khả thi thì lãi suất chỉ còn 5-6%/năm.
- Điều hành các giải pháp tín dụng linh hoạt phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận vốn vay ngân hàng; triển khai các chính sách tín dụng đối với một số ngành, lĩnh vực để hỗ trợ các TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả, chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo chủ trương của Chính phủ, hỗ trợ công tác an sinh-xã hội.
Trên cơ sở mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cả giai đoạn 2011-2015 và từng năm được Quốc hội thông qua, NHNN xác định mức tăng trưởng tín dụng từng năm phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng GDP, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Theo đó, thực hiện giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD theo mục tiêu chung là dưới 20% trong năm 2011, từ năm 2012 đến nay thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng theo các nhóm, trong quá trình thực hiện, có rà soát và linh hoạt điều chỉnh tăng cho một số TCTD có nhu cầu và có điều kiện mở rộng tín dụng an toàn. Đồng thời, ban hành và hướng dẫn các TCTD triển khai kịp thời các chính sách tín dụng đối với các ngành, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Quốc hội, Chính phủ; tích cực phối hợp với các cấp, các ngành chỉ đạo các TCTD thực hiện các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn giảm lãi vốn vay, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng đã ký trước đây xuống mức lãi suất cho vay hiện hành, đổi mới quy trình cho vay theo hướng đơn giản hóa thủ tục vay vốn, nhưng vẫn đảm bảo an toàn vốn vay và không trái với quy định của pháp luật, nâng cao khả năng thẩm định để rút ngắn thời gian giải quyết cho vay; phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố triển khai chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp để nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng.
Với việc triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp nêu trên, chất lượng, hiệu quả đồng vốn tín dụng ngân hàng ngày càng được nâng cao, phù hợp với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Thể hiện:
(i) Dù tín dụng giai đoạn 2011-2014 tăng bình quân khoảng 12,6%/năm (dự kiến năm 2015 tăng khoảng 13-15%), thấp hơn rất nhiều so với mức tăng bình quân 33,3%/năm của giai đoạn 2006-2010, nhưng phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý (tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2014 vẫn đạt mức bình quân khoảng 5,7%/năm và dự kiến năm 2015 tăng khoảng 6,2%), không thấp hơn nhiều so với mức bình quân 7% của giai đoạn 2006-20103;
(ii) Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là 5 lĩnh vực ưu tiên: nông nghiệp nông thôn, lĩnh vực xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa; công nghiệp hỗ trợ4; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tính đến tháng 4/2015, tín dụng nông nghiệp nông thôn tăng 58,87% so với cuối năm 2011. Đến tháng 02/2015, so với cuối năm 2011, tín dụng xuất khẩu tăng khoảng 39,97%; tín dụng cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 12,84%; tín dụng đối với lĩnh vực công nghiệp ưu tiên phát triển tăng 21,07%; so với cuối năm 2012, tín dụng đối với lĩnh vực doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 94%5.
- Điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt, phối hợp đồng bộ với chính sách lãi suất và các công cụ chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối và công tác truyền thông, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao niềm tin vào đồng Việt Nam. NHNN đã chủ động công bố định hướng điều hành tỷ giá trong từng thời kỳ, kiên định thực hiện các giải pháp điều hành nhằm ổn định tỷ giá trong phạm vi định hướng đề ra, giúp doanh nghiệp chủ động trong việc lập kế hoạch sản xuất - kinh doanh. Tỷ giá được điều chỉnh phù hợp với diễn biến thị trường trong và ngoài nước nhằm ổn định thị trường ngoại tệ và góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. NHNN cũng kịp thời thực hiện mua bán ngoại tệ can thiệp để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD khi cần thiết, thực hiện công tác truyền thông để ổn định tâm lý thị trường khi tỷ giá và thị trường ngoại tệ có biến động bất thường.
Nhờ đó, tỷ giá và thị trường ngoại tệ trong hơn 3 năm qua liên tục ổn định, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của tổ chức và cá nhân được các TCTD đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Vị thế và lòng tin vào VND ngày càng được củng cố, tăng cường. Tình trạng đô la hóa giảm mạnh, ngoại tệ tập trung chủ yếu vào hệ thống ngân hàng và NHNN đã mua được số lượng ngoại tệ lớn, đưa mức dự trữ ngoại hối Nhà nước lên cao nhất từ trước tới nay, góp phần tăng tiềm lực tài chính và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
II. TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ CÁC CHƯƠNG TRÌNH TÍN DỤNG CHÍNH SÁCH6
1. Hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích, tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn
Nhằm tạo điều kiện giúp các đối tượng khách hàng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tiếp cận được nhiều hơn nguồn vốn tín dụng ngân hàng, NHNN đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp (Nghị định số 41) đồng thời ban hành Thông tư số 14/2010/TT-NHNN ngày 14/6/2010 hướng dẫn triển khai thực hiện. Sau hơn 4 năm tổ chức triển khai quyết liệt để đưa chính sách vào cuộc sống, nguồn vốn tín dụng ngân hàng cho nông nghiệp, nông thôn đã mang lại hiệu quả to lớn, góp phần quan trọng giúp lĩnh vực này phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là các sản phẩm có lợi thế như lúa gạo, thủy sản, cà phê…, tạo khí thế phấn khởi thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới trong cả nước.
Tuy nhiên, hiện nay đã xuất hiện những mô hình mới trong sản xuất nông nghiệp và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 về phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, do vậy chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn cũng cần được bổ sung hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu ngành nông nghiệp trong giai đoạn mới. Do đó, NHNN đã chủ trì phối hợp với các Bộ, Ngành, địa phương trình Chính phủ dự thảo Nghị định mới thay thế Nghị định 41 nhằm tạo đột phá trong việc mở rộng đầu tư tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp, như: (i) Mở rộng đối tượng vay vốn nằm ngoài khu vực nông thôn nhưng có hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng được thụ hưởng chính sách; (ii) Nâng mức cho vay không có tài sản bảo đảm quy định tại Nghị định 41 lên gấp từ 1,5 - 2 lần đối với từng đối tượng để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất nông nghiệp trong thời gian tới; (iii) Khuyến khích phát triển việc sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết, ứng dụng công nghệ cao nhằm thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp với quy định mức vay không có tài sản bảo đảm đến 70-80% giá trị phương án, dự án sản xuất, kinh doanh và có cơ chế xử lý khoản nợ khi khách hàng vay vốn gặp rủi ro do thiên tai, dịch bệnh trên diện rộng nhằm giúp doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác sẽ yên tâm hơn trong việc chủ trì các mô hình liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, Bộ Tư pháp đã hoàn tất việc thẩm định dự thảo Nghị định và NHNN cũng đã giải trình những vấn đề theo đề nghị của Văn phòng Chính phủ trước khi trình Chính phủ ban hành Nghị định, dự kiến trong Quý II/2015. NHNN cũng đang hoàn thiện dự thảo Thông tư của NHNN hướng dẫn chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn theo Nghị định mới thay thế Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ để đảm bảo các TCTD có thể kịp thời triển khai cho vay khi Chính phủ ban hành Nghị định mới.
Ngoài ra, NHNN cũng ban hành nhiều văn bản định hướng đầu tư tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn – một trong năm lĩnh vực ưu tiên; chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động tháo gỡ khó khăn, đổi mới quy trình, thủ tục cho vay nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng đối với lĩnh vực này, như: (i) Hỗ trợ các TCTD có tỷ trọng cho vay nông nghiệp, nông thôn lớn (từ 40% trở lên) thông qua tái cấp vốn và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc; (ii) Tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng mạng lưới tại các vùng sâu, vùng xa, các địa bàn nông nghiệp, nông thôn phù hợp với điều kiện thực tế để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển sản xuất - kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; (iii) Quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thấp hơn lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực sản xuất thông thường khác; (iv) Chỉ đạo các TCTD thực hiện các giải pháp về đảm bảo nguồn vốn, giảm lãi suất, cơ cấu thời hạn trả nợ, đơn giản hóa các thủ tục hành chính để tăng khả năng tiếp cận vốn của người dân, doanh nghiệp tại khu vực nông thôn theo hướng tiết giảm tối đa thủ tục. Đồng thời NHNN cũng triển khai một số chương trình tín dụng đặc thù đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn như mô hình cho vay liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, chính sách cho vay đối với chăn nuôi, thủy sản, cà phê…
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, thời gian qua, các tổ chức tín dụng đã có nhiều đổi mới trong việc xây dựng quy trình cho vay theo hướng đơn giản hóa thủ tục vay vốn, giảm bớt phiền hà cho khách hàng vay vốn, nhưng vẫn đảm bảo an toàn vốn vay, đặc biệt là đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Trong đó, để phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa bàn nông thôn, các tổ chức tín dụng đã rà soát và hoàn thiện hồ sơ tín dụng theo hướng tiết giảm tối đa thủ tục, giấy tờ, triển khai các sản phẩm tín dụng với các hình thức đơn giản, phù hợp cho người sản xuất như: cho vay liên vụ, cho vay qua sổ tín dụng, xuống tận địa bàn để cho vay, thu nợ (gốc, lãi) ngay tại địa bàn của người vay thay vì phải đến trụ sở ngân hàng... Đồng thời, tổ chức triển khai quyết liệt các chương trình tín dụng nông nghiệp, nông thôn. Một số kết quả cụ thể như sau:
1.1. Phát triển mô hình liên kết, nhân rộng mô hình “cánh đồng mẫu lớn“ để cơ giới hóa và áp dụng khoa học,công nghệ tiên tiến
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Nghị quyết 14/NQ-CP, ngày 28/5/2014, NHNN đã ban hành Quyết định số 1050/QĐ-NHNN về chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp. Theo đó, các doanh nghiệp tham gia chương trình sẽ được vay vốn với lãi suất ưu đãi (ngắn hạn 6,5%/năm, trung hạn 9,5%/năm, dài hạn 10%/năm); mức cho vay lên đến 90% giá trị của phương án, dự án vay vốn; thời hạn vay vốn phù hợp với mục đích sử dụng vốn của khách hàng và có thể được vay không cần tài sản thế chấp nếu khách hàng không đủ tài sản bảo đảm và ngân hàng có thể kiểm soát được dòng tiền theo chuỗi liên kết của dự án.
Đến nay, NHNN đã phối hợp với Bộ, ngành liên quan lựa chọn 28 doanh nghiệp tiêu biểu đại diện cho 8 ngành nghề sản xuất nông nghiệp7 trên toàn quốc thực hiện 31 dự án tại 22 tỉnh, thành phố tham gia chương trình cho vay thí điểm được vay vốn với tổng số tiền trên 5.627 tỷ đồng, số tiền giải ngân đến 24/4/2015 đạt 3.116 tỷ đồng, dư nợ cho vay đạt 1.816 tỷ đồng.
1.2. Cho vay đối với các lĩnh vực Nhà nước ưu tiên như tiêu thụ nông sản, thủy sản... đảm bảo tăng trưởng tín dụng, góp phần tăng trưởng kinh tế
a. Chính sách tín dụng đối với chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã chỉ đạo 5 NHTM Nhà nước tích cực triển khai các biện pháp hỗ trợ đối với chăn nuôi, thủy sản (cho vay mới với lãi suất thị trường thấp nhất, gia hạn nợ tối đa 24 tháng đối với các hộ gia đình, cá nhân doanh nghiệp) theo văn bản số 1149/QĐ-TTg ngày 8/8/2012 về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho chăn nuôi, thủy sản. Dư nợ cho vay đến cuối tháng 4/2015 ước đạt 42.700 tỷ đồng, tăng 5,8% so với 31/12/2014; các NHTMNN cũng tích cực thực hiện gia hạn nợ đối với lĩnh vực này (đối với các khoản nợ cũ từ ngày 15/8/2012 trở về trước) với dư nợ được gia hạn khoảng 2.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, NHNN đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 540/QĐ-TTg ngày 16/4/2014 về chính sách tín dụng đối với người nuôi tôm và cá tra (cơ cấu lại thời hạn trả nợ tối đa 36 tháng đối với hộ dân, chủ trang trại, HTX gặp khó khăn tạm thời về tài chính; khoanh nợ 3 năm đối với khách hàng gặp khó khăn trong sản xuất và trả nợ ngân hàng do nguyên nhân bất khả kháng). Đến nay, các ngân hàng đã thực hiện khoanh nợ cho 11.668 khách hàng với tổng số tiền khoanh nợ là trên 777,52 tỷ đồng; NHNN đã thực hiện tái cấp vốn đối với 02 ngân hàng (SCB, Agribank) với số tiền 458,25 tỷ đồng và đang tiếp tục xem xét tái cấp vốn cho các NHTM khác thực hiện khoanh nợ.
b. Chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp: Triển khai Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, NHNN đã ban hành Thông tư 13/2014/TT-NHNN ngày 18/4/2014 hướng dẫn các NHTM triển khai cho vay hỗ trợ chương trình trên. Ước đến cuối tháng 4/2015, tổng dư nợ cho vay theo chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp đạt 2.100 tỷ đồng, tăng 13,63% so với 31/12/2014.
c. Chính sách cho vay đối với ngành lúa, gạo: Triển khai Nghị định 109/2010/NĐ-CP ngày 04/11/2010 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo, NHNN đã ban hành Thông tư 08/2011/TT-NHNN ngày 08/4/2011 quy định chi tiết về tín dụng kinh doanh xuất khẩu gạo. Theo đó, các TCTD có trách nhiệm chủ động cân đối nguồn vốn để cho vay, đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các thương nhân kinh doanh xuất khẩu thóc gạo hàng hóa. Trong 4 tháng đầu năm 2015 doanh số cho vay thu mua lúa gạo toàn quốc ước đạt 37.500 tỷ đồng (tăng 5,24% so với cùng kỳ năm 2014), trong đó doanh số cho vay tại 13 tỉnh ĐBSCL ước đạt 31.400 tỷ đồng; đến cuối tháng 04/2015, dư nợ cho vay lúa gạo toàn quốc ước đạt 34.400 tỷ đồng, tăng 22,3% so với 31/12/2014.
Ngoài ra, trong giai đoạn 2011-2015, NHNN đã chỉ đạo các NHTM cân đối đảm bảo đầy đủ nguồn vốn cho vay thu mua tạm trữ thóc, gạo đối với 06 vụ thu hoạch trên địa bàn các tỉnh vùng ĐBSCL theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ với tổng sản lượng thóc gạo được cho vay thu mua tạm trữ trong các năm qua là 5,2/5,5 triệu tấn; doanh số cho vay thu mua tạm trữ đạt 42.571,7 tỷ đồng.
d. Chính sách tái canh cây cà phê: Căn cứ Đề án tái canh cà phê tại các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn 2014-2020 đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT phê duyệt, trên cơ sở tổng hợp ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, địa phương, NHNN đã đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận phương án cho vay tái canh cà phê tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên giai đoạn 2014 – 2020; đồng thời Thủ tướng Chính phủ giao NHNN ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện, phối hợp Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Công Thương và UBND các tỉnh Tây Nguyên triển khai có hiệu quả đề án tái canh. Hiện nay, NHNN đang hoàn thiện văn bản hướng dẫn, dự kiến sẽ triển khai vào đầu Quý II/2015.
Đến cuối tháng 4/2015, dư nợ cho vay cà phê toàn quốc đạt 41.400 tỷ đồng tăng 12,3% so với cuối năm 2014 và tăng 1,7 lần so với năm 2011. Trong đó, dư nợ cho vay cà phê tại 5 tỉnh khu vực Tây Nguyên ước đạt 32.526 tỷ đồng, tăng 8,37% so với cuối năm 2014, tăng 1,94 lần so với năm 2011 và chiếm 78,58% dư nợ cho vay cà phê toàn quốc.
1.3. Cho vay đánh bắt xa bờ gắn với chiến lược biển
Phát triển kinh tế biển, nâng cao đời sống ngư dân gắn liền với bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biển đảo quốc gia là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Nhằm tạo bước đột phá cho ngành thủy sản nói chung và khai thác hải sản xa bờ nói riêng, Chính phủ đã ban hành Nghị định 67/2014/NĐ-CP với mục tiêu hình thành mới đội tàu công suất lớn, hiện đại đủ sức vươn khơi xa. Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 67/2014/NĐ-CP, NHNN đã kịp thời hướng dẫn các ngân hàng thương mại triển khai cho vay; đồng thời tổ chức các hội nghị của ngành tại các địa phương nhằm hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến thực hiện chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác thủy sản xa bờ đạt hiệu quả cao, thực sự đi vào cuộc sống.
Đến nay, các ngân hàng đã ký hợp đồng tín dụng đóng mới, nâng cấp 31 tàu (28 tàu đóng mới và 3 tàu nâng cấp) với tổng số tiền là 271,01 tỷ đồng, thời hạn vay 11 năm, tài sản bảo đảm là chính con tàu đóng mới được hình thành từ vốn vay; Mức cho vay đáp ứng đầy đủ theo nhu cầu của khách hàng từ 60%-95% tổng giá trị đầu tư đóng mới con tàu; Dư nợ cho vay đạt trên 70 tỷ đồng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn những khó khăn ảnh hưởng đến quá trình cho vay như: mẫu tàu chưa phù hợp, việc phê duyệt danh sách ngư dân đủ điều kiện thụ hưởng chính sách tại Nghị định 67 của các địa phương còn chậm, ngư dân không đủ vốn đối ứng...
Hiện, các ngân hàng vẫn đang tiếp tục tiếp cận với các khách hàng trong danh sách đã được UBND các địa phương phê duyệt để thẩm định, ký kết hợp đồng và giải ngân cho vay. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng chủ động tiếp cận trước những khách hàng có nhu cầu đóng mới tàu để giảm bớt thời gian thẩm định cho vay sau khi được UBND tỉnh, thành phố phê duyệt.
1.4. Đẩy mạnh chương trình xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân
Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, NHNN đã ban hành kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng hưởng ứng phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, theo đó: (i) NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố chỉ đạo các tổ chức tín dụng trên địa bàn cân đối nguồn vốn để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các huyện, thị xã và các xã được Ban Chỉ đạo địa phương lựa chọn xây dựng nông thôn mới; nắm bắt kịp thời tình hình cho vay phục vụ xây dựng nông thôn mới của các tổ chức tín dụng và thực hiện hỗ trợ giải quyết khó khăn trong quan hệ tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay vốn trên địa bàn; (ii) Các tổ chức tín dụng chủ động cân đối nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho vay xây dựng nông thôn mới tại các địa phương trên toàn quốc, tích cực vận động hưởng ứng thực hiện phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” trong toàn hệ thống.
Tính đến cuối tháng 4/2015, dư nợ tín dụng nông nghiệp, nông thôn đạt 792.876 tỷ đồng tăng 6,48% so cuối năm 2014, bình quân tăng hơn 30% trong thời gian 2010-2014. Kết quả này đã tạo khí thế phấn khởi thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và nâng cao đời sống nhân dân trong thời gian qua.
1.5. Một số chương trình tín dụng khác
a. Chương trình kết nối Ngân hàng – doanh nghiệp
NHNN đã chỉ đạo NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố, các TCTD tích cực triển khai Chương trình kết nối ngân hàng doanh nghiệp, theo đó ngân hàng và các cấp chính quyền địa phương gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với các doanh nghiệp nhằm nắm bắt khó khăn, vướng mắc để có giải pháp tháo gỡ kịp thời như: cho vay mới với lãi suất thấp, giảm lãi suất các khoản vay cũ, nâng hạn mức tín dụng, cơ cấu lại các khoản nợ, cho vay tín chấp... Đến nay, Chương trình đã được triển khai trên tất cả 63 tỉnh, thành phố của cả nước với hơn 370 buổi Hội nghị đối thoại, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Ngành ngân hàng đã hỗ trợ doanh nghiệp với nhiều hình thức như: cho vay mới với lãi suất thấp, giảm lãi suất các khoản vay cũ, nâng hạn mức tín dụng, cơ cấu lại các khoản nợ cũ,… Tổng số tiền được hỗ trợ theo Chương trình đến hết tháng 4/2015 đạt hơn 310.000 tỷ đồng, trong đó: Cam kết cho vay mới cho hơn 18.800 khách hàng doanh nghiệp và nhiều đối tượng khác (hợp tác xã, tiểu thương...) đạt gần 260.000 tỷ đồng, cao hơn 45.000 tỷ đồng so với mức cho vay mới tại thời điểm cuối năm 2014; Hỗ trợ cho gần 6.000 doanh nghiệp và khoảng 19.000 đối tượng khách hàng khác thông qua các hình thức cơ cấu nợ, nâng hạn mức tín dụng, điều chỉnh giảm lãi suất cho các khoản vay cũ,… với tổng số tiền khoảng 50.000 tỷ đồng.
b. Chính sách bình ổn giá, mở rộng đối tượng thực hiện đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa, triển khai rộng rãi ở các vùng nông thôn
Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm triển khai Chương trình bình ổn thị trường tại Thành phố Hồ Chí Minh và nhằm nhân rộng, phát huy hiệu quả Chương trình trên phạm vi cả nước, NHNN đã ban hành văn bản gửi Bí thư, Chủ tịch các tỉnh/thành phố để phối hợp triển khai chương trình bình ổn thị trường trên phạm vi toàn quốc theo hướng áp dụng cơ chế hỗ trợ tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp tham gia bình ổn thị trường. Mục tiêu của Chương trình nhằm góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường hàng hóa, từ đó bảo đảm an sinh xã hội và thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. Từ khi triển khai chương trình đến nay, với sự chỉ đạo của UBND các tỉnh, thành phố, NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố đã phối hợp với các Sở, ban, ngành để tiếp cận các doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn và kết nối các doanh nghiệp này tới các ngân hàng thương mại trên địa bàn.
Ngoài tiếp cận các doanh nghiệp tham gia Chương trình bình ổn thị trường, NHNN còn chỉ đạo các TCTD tích cực tiếp cận các đơn vị ngoài Chương trình nhưng có tham gia chuỗi cung ứng hàng hóa gắn kết với doanh nghiệp bình ổn thị trường để có chính sách cho vay phù hợp nhằm khuyến khích các doanh nghiệp khi tham gia Chương trình bình ổn giá. Kết quả đạt được bước đầu như sau:
- Tại TP HCM, chương trình bình ổn tiếp tục được triển khai từ ngày 01/04/2015 đến 31/03/2016 với 4 nhóm hàng là Lương thực thực phẩm, Sữa, Dược phẩm thiết yếu và sản phẩm mùa khai trường. Chương trình đã thu hút 85 doanh nghiệp tham gia; có 11 TCTD đã đăng ký tổng hạn mức tín dụng cho chương trình là 11.850 tỷ đồng (tăng 3.550 tỷ đồng so với năm 2014) trong đó có thêm 2 nội dung mới là gói hỗ trợ DN bình ổn đẩy mạnh xuất khẩu với hạn mức 900 tỷ đồng, lãi suất 2-4% và gói hỗ trợ tiểu thương chợ truyền thống với hạn mức 1.500 tỷ đồng.
- Tại các địa phương khác, bước đầu các NHTM đã đăng ký gói tín dụng cho chương trình bình ổn như: (i) Tại Lạng Sơn, các TCTD đã đăng ký hạn mức tín dụng 113,5 tỷ đồng cho 5 doanh nghiệp bình ổn, lãi suất 7%/năm; (ii) Tại Ninh Bình, các TCTD đã đăng ký hạn mức tín dụng 16,5 tỷ đồng cho 1 doanh nghiệp bình ổn, lãi suất 7,5%/năm; (iii) Tại Tây Ninh, các TCTD đã đăng ký hạn mức tín dụng 80 tỷ đồng cho 3 doanh nghiệp bình ổn, lãi suất 5,75-8%/năm.
c. Cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP
Đến 31/3/2015, có 15.598 khách hàng được ký hợp đồng tín dụng trong gói tín dụng hỗ trợ nhà ở với tổng số tiền cam kết cho vay từ các ngân hàng đạt hơn 12.111 tỷ đồng; chiếm tỷ trọng khoảng 40,37% tổng nguồn vốn dành cho chương trình cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết 02/NQ-CP của Chính phủ, tăng 25,3% so với 31/12/2014. Giải ngân theo tiến độ đạt 6.884,8 tỷ đồng8.
d. Triển khai thí điểm sản phẩm liên kết 4 nhà trong lĩnh vực bất động sản
NHNN đã chỉ định 8 ngân hàng thương mại9 triển khai thí điểm sản phẩm tín dụng liên kết 4 nhà (Ngân hàng - Chủ đầu tư - Nhà thầu - Nhà cung cấp vật liệu xây dựng) trong lĩnh vực xây dựng. Việc triển khai chương trình sẽ giúp khơi thông dòng vốn trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, góp phần đẩy mạnh tiêu thụ hàng tồn kho bất động sản, hàng tồn kho vật liệu xây dựng,… đồng thời cũng tăng cường sự hợp tác, phối hợp giữa các tổ chức tín dụng trong việc kiểm soát dòng tiền, nâng cao chất lượng tín dụng, giảm nợ xấu. Đến 31/3/2015, có 3 ngân hàng đã thực hiện cho vay theo chuỗi liên kết 4 nhà là BIDV, SHB và Vietinbank. Số tiền ký hợp đồng tín dụng theo chuỗi liên kết 4 nhà là 24.581 tỷ đồng; số dư tín dụng đến 31/3/2015 là 14.690 tỷ đồng.
2. Chính sách tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác
Hoạt động tín dụng ưu đãi là một cấu phần quan trọng trong chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững của nước ta. Thực hiện chính sách đối với người nghèo và các đối tượng chính sách, từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến nay, NHNN đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan ban hành nhiều văn bản hướng dẫn các chủ trương, chính sách mới, như: Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/2/2013 về tín dụng đối với hộ cận nghèo; Quyết định số 2621/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 sửa đổi, bổ sung một số mức hỗ trợ phát triển sản xuất quy định tại Nghị quyết 30a nhằm hỗ trợ các huyện nghèo; Nghị quyết 14/NQ-CP ngày 5/3/2014 của Chính phủ về đề xuất phương án giảm lãi suất một số chương trình tín dụng chính sách; Quyết định về nâng mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo từ 30 triệu đồng/hộ lên 50 triệu đồng/hộ; Quyết định số 48/2014/QĐ-TTg ngày 28/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng, tránh bão, lụt khu vực miền Trung… Ngoài ra, NHNN đang trình Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách cho vay đối với hộ mới thoát nghèo. Kết quả triển khai cụ thể như sau:
Hiện nay, Ngân hàng Chính sách xã hội đang triển khai thực hiện 19 chương trình tín dụng chính sách theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và một số các chương trình, dự án do các tổ chức nước ngoài, địa phương ủy thác. Trong giai đoạn 2011-2014, tổng doanh số cho vay đạt trên 138.833 tỷ đồng với trên 8.605.789 lượt khách hàng được vay vốn, tổng doanh số thu nợ trên 98.509 tỷ đồng. Tổng dư nợ cho vay các chương trình tín dụng đến 31/12/2014 đạt 129.456 tỷ đồng, tăng 25.725 tỷ đồng (+24,8%) so với năm 2011, với hơn 8 triệu khách hàng còn dư nợ. Tốc độ tăng trưởng bình quân từ năm 2011 đến 2014 đạt 7,7%/năm.
Bên cạnh đó, nhằm tạo điều kiện thuận lợi về nguồn vốn cho NHCSXH, NHNN đã cho NHCSXH vay tái cấp vốn, hướng dẫn các tổ chức tín dụng Nhà nước duy trì số dư tiền gửi tại NHCSXH theo đúng quy định. Tính đến hết ngày 31/12/2014, tổng nguồn vốn của NHCSXH đạt 136.750 tỷ đồng, tăng 7.540 tỷ đồng so với cuối năm 2013, tỷ lệ tăng 5,8%, trong đó, nguồn vốn vay NHNN và nguồn nhận tiền gửi 2% của các ngân hàng thương mại nhà nước tại NHCSXH đạt 53.802 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 39,3% tổng nguồn vốn.
Kết quả này đã góp phần quan trọng giúp giảm tỷ lệ hộ nghèo cả nước từ 14,2% (năm 2010) xuống còn 5,97% vào cuối năm 2014; tỷ lệ hộ nghèo tại 62 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP giảm từ 50,97% cuối năm 2011 xuống còn 32,59% cuối năm 2014. Bình quân tỷ lệ hộ nghèo chung cả nước giảm 2%/năm, tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân trên 5%/năm, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra giai đoạn 2012-2015. Dự kiến đến cuối năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn dưới 5%.
Những nỗ lực của ngành Ngân hàng đã được Quốc hội ghi nhận tại Báo cáo về kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo, giai đoạn 2005-2012”: chính sách tín dụng cho hộ nghèo là chính sách được triển khai rộng rãi nhất, đáp ứng một lượng lớn nhu cầu vốn của hộ nghèo, tác động trực tiếp và mang lại hiệu quả thiết thực, là một trong những điểm sáng trong các chính sách giảm nghèo…”.
III. QUẢN LÝ CHẶT CHẼ THỊ TRƯỜNG VÀNG; KHÔNG SỬ DỤNG VÀNG LÀM PHƯƠNG TIỆN THANH TOÁN; TIẾN TỚI HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC VÀNG TRONG DÂN PHỤC VỤ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN10
Việt Nam là nước nhập khẩu vàng và chịu nhiều ảnh hưởng từ yếu tố tâm lý, tập quán nắm giữ vàng của người dân. Trong suốt một thời gian dài trước đây, thị trường vàng Việt Nam luôn biến động bất thường và là nhân tố gây bất ổn thị trường ngoại hối, tỷ giá và ổn định kinh tế vĩ mô. Trước bối cảnh đó, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và các chỉ đạo của Chính phủ về quản lý thị trường vàng, từ năm 2011, Ngân hàng Nhà nước đã khẩn trương xây dựng và trình Chính phủ ban hành khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng, gồm: Nghị định 95/2011/NĐ-CP ngày 20/10/2011 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ và vàng; Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 03/04/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (Nghị định 24), đồng thời khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện và phối hợp với các Bộ, ngành, chính quyền địa phương tăng cường tuyên truyền để người dân hiểu đúng và đồng thuận với chủ trương quản lý vàng của Đảng, Nhà nước; kiểm tra, giám sát chặt chẽ và xử lý nghiêm các vi phạm.
Với các biện pháp quyết liệt triển khai từ cuối năm 2011 đến nay, công tác quản lý thị trường vàng đã cơ bản đạt được mục tiêu đề ra. Đến nay thị trường vàng đã được sắp xếp lại một cách cơ bản; trật tự, kỷ cương trên thị trường đã được xác lập, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đã được đảm bảo11; vai trò quản lý nhà nước đối với thị trường vàng đã được nâng cao; toàn bộ quan hệ huy động, cho vay vốn bằng vàng đã chuyển hoàn toàn sang quan hệ mua, bán vàng; tình trạng ”vàng hóa” trong nền kinh tế đã từng bước được ngăn chặn; tình trạng sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán về cơ bản đã được chấm dứt, sức hấp dẫn của vàng miếng đã giảm đáng kể, cung cầu vàng miếng chuyển dịch từ trạng thái thiếu hụt nguồn cung sang xu hướng cân bằng, một phần nguồn vốn nhàn rỗi bằng vàng trong nền kinh tế đã được chuyển hóa thành tiền. Mặc dù thị trường vàng thế giới biến động phức tạp nhưng thị trường vàng trong nước diễn biến ổn định, không còn tình trạng người dân đổ xô đi mua vàng như giai đoạn trước đây; biến động của giá vàng trong nước không ảnh hưởng đến sự ổn định của tỷ giá, thị trường ngoại hối và kinh tế vĩ mô. Từ đầu năm 2014 đến nay, NHNN chưa phải sử dụng ngoại tệ để can thiệp bình ổn thị trường vàng12.
Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục các giải pháp đồng bộ để đảm bảo thị trường vàng duy trì ổn định, sử dụng nguồn lực bằng vàng trong nước để tự cân đối. Đồng thời, NHNN sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng có liên quan trong việc triển khai các giải pháp đồng bộ, linh hoạt nhằm thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng và nâng cao lòng tin của người dân vào giá trị đồng Việt Nam. Đây là tiền đề quan trọng để triển khai giải pháp trong dài hạn là huy động nguồn lực vàng trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc NHNN mua vàng miếng tăng Dự trữ ngoại hối Nhà nước khi điều kiện cho phép.
IV. VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠ CẤU LẠI HỆ THỐNG CÁC TCTD, XỬ LÝ NỢ XẤU VÀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THANH TRA, GIÁM SÁT13
1. Về cơ cấu lại các tổ chức tín dụng
Thực hiện Kết luận số 10-KL/TW ngày 18/10/2011 của Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, từ cuối năm 2011, NHNN đã xây dựng, báo cáo Bộ Chính trị trình và được Chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 (Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012). Ngay sau khi Đề án được phê duyệt, Thống đốc NHNN đã ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai thực hiện Đề án và tổ chức triển khai các giải pháp như: (i) Đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các TCTD để phân loại, xác định các TCTD yếu kém cần ưu tiên xử lý trước; (ii) Chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát các TCTD xây dựng và triển khai Phương án cơ cấu lại tại từng TCTD; (iii) Tăng cường công tác quản lý nhà nước về thanh tra, giám sát thị trường tiền tệ và hoạt động của hệ thống TCTD hỗ trợ cơ cấu lại các TCTD; (iv) Từng bước xử lý tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo tại các TCTD, xử lý kịp thời các vi phạm và ngăn chặn rủi ro phát sinh; (v) Chỉ đạo các TCTD thực hiện mua lại, sáp nhập, hợp nhất, giảm dần số lượng các TCTD, đặc biệt là các TCTD yếu kém; (vi) Chỉ đạo các TCTD tăng quy mô và năng lực tài chính, đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng, từng bước thoái vốn đầu tư vào những ngành, lĩnh vực phi tài chính hoặc lĩnh vực đầu tư nhiều rủi ro; (vii) Đổi mới, hoàn thiện các quy định an toàn hoạt động của TCTD phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Kết quả triển khai cụ thể như sau:
- Các TCTD yếu kém đã được kiểm soát và xử lý một bước theo các phương án cơ cấu lại được duyệt đều có tình hình hoạt động ổn định và cải thiện hơn so với thời điểm bắt đầu thực hiện cơ cấu lại. Từ đó, nguy cơ đổ vỡ hệ thống đã được đẩy lùi; tài sản của Nhà nước và quyền lợi của người gửi tiền được bảo đảm góp phần giữ vững an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội; các vi phạm về tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn, vi phạm về cấp tín dụng đang được khắc phục, xử lý quyết liệt; hệ thống quản trị và tổ chức bộ máy, mạng lưới đã được củng cố, chấn chỉnh một bước quan trọng.
- Các hoạt động mua, bán, sáp nhập, hợp nhất các TCTD diễn ra mạnh mẽ, an toàn không chỉ giữa TCTD yếu kém với TCTD bình thường mà còn diễn ra giữa các TCTD bình thường với nhau hoặc giữa TCTD trong nước với TCTD nước ngoài trên nguyên tắc tự nguyện và đúng pháp luật. Thông qua sáp nhập, hợp nhất, giải thể, số lượng TCTD đã giảm đi 7 tổ chức14. Năm 2014, NHNN đã chấp thuận về nguyên tắc một số trường hợp mua lại, sáp nhập TCTD để vừa xử lý TCTD yếu kém vừa nâng cao quy mô, năng lực cạnh tranh một số ngân hàng thương mại và dự kiến trong năm 2015 sẽ tiếp tục xem xét, triển khai một số trường hợp hợp nhất, sáp nhập với sự tham gia của các ngân hàng thương mại nhà nước; phấn đấu đến cuối 2015, hình thành được 1-2 ngân hàng thương mại có quy mô và trình độ tương đương với các ngân hàng trong khu vực.
- Các TCTD quan tâm đổi mới, nâng cao hiệu quả hệ thống quản trị, điều hành, hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ và rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy, sắp xếp lại mạng lưới; Cơ cấu lại hoạt động kinh doanh và danh mục tài sản, đồng thời từng bước định hướng chiến lược kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng.
- Sở hữu chéo, đầu tư chéo trong lĩnh vực ngân hàng được xử lý từng bước thông qua nhiều giải pháp đồng bộ, đặc biệt là thông qua công tác thanh tra, giám sát; hợp nhất, sáp nhập ngân hàng và ban hành các quy định pháp lý mới. Tính đến cuối năm 2014 chỉ còn 03 cặp NHTMCP có sở hữu cổ phần trực tiếp lẫn nhau (giảm 03 cặp so với năm 2012); sở hữu cổ phần trực tiếp lẫn nhau giữa ngân hàng và doanh nghiệp chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng vốn điều lệ của hệ thống.
- Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng các TCTD vẫn nỗ lực cải thiện năng lực tài chính và tăng vốn điều lệ để tạo điều kiện mở rộng hoạt động và nâng cao khả năng đối phó với các rủi ro trong hoạt động. Trong đó, vốn điều lệ của hệ thống các TCTD đến cuối tháng 12/2014 là 435,6 nghìn tỷ đồng, tăng 3,29% so với tháng 12/201315; Tổng tài sản đến cuối tháng 12/2014 là 6.514,9 nghìn tỷ đồng, tăng 12,2% so với tháng 12/2013.
- Khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và tái cơ cấu, xử lý nợ xấu đã được hoàn thiện một bước tạo môi trường cho hoạt động ngân hàng an toàn, lành mạnh và hiệu quả, đồng thời góp phần nâng cao vai trò, hiệu quả quản lý nhà nước của NHNN và hỗ trợ cơ cấu lại các TCTD. NHNN đã ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản pháp lý mới, quan trọng về an toàn hoạt động nhằm tạo nên các chuẩn mực về quản trị, an toàn hoạt động ngân hàng theo hướng chặt chẽ hơn và phù hợp hơn với thông lệ, chuẩn lực quốc tế.
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay, việc cơ cấu lại các TCTD yếu kém chủ yếu bằng nguồn lực của khu vực tư nhân, hệ thống ngân hàng vừa bảo đảm giữ vững an toàn, không giảm đầu tư và làm gián đoạn cung cấp dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế cho thấy sự cố gắng rất lớn của hệ thống ngân hàng trong thời gian qua.
Kết quả đạt được nói trên cho thấy các giải pháp cơ cấu lại các TCTD có tính khả thi, đã được triển khai quyết liệt theo đúng mục tiêu, định hướng và lộ trình đề ra. Nhận thức về cơ cấu lại các TCTD, tư duy quản trị của các chủ sở hữu TCTD đã có sự thay đổi căn bản theo hướng thừa nhận sự tất yếu khách quan phải cơ cấu lại để khắc phục những hạn chế, yếu kém và tăng cường năng lực cạnh tranh. Những kết quả đạt được trong cơ cấu lại các TCTD đã góp phần quan trọng trong việc ổn định hệ thống tài chính, kinh tế vĩ mô, hỗ trợ điều hành chính sách tiền tệ và tạo cơ sở cho việc đẩy nhanh cơ cấu lại các TCTD trong giai đoạn tiếp theo.
Kết quả cơ cấu lại ngân hàng trong 3 năm qua góp phần đưa 11 ngân hàng của Việt Nam được lọt vào danh sách 1000 ngân hàng thế giới năm 2014 do tờ tạp chí The Banker công bố. Trong xếp hạng ngân hàng khu vực Đông Nam Á về Chỉ số an toàn vốn cấp 1, các ngân hàng Việt Nam chiếm đa số trong top 10. Năm 2014, tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s đã nâng mức xếp hạng nhà phát hành tiền gửi nội tệ và ngoại tệ dài hạn đối với BIDV và Vietinbank từ B3 lên B2; nâng xếp hạng tín nhiệm tiền gửi và xếp hạng nhà phát hành nội tệ và ngoại tệ dài hạn của NHTMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) lên một bậc, từ B3 lên B2, với triển vọng ổn định. NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội cũng được giữ nguyên triển vọng ở mức ổn định; 05 NHTMCP khác bao gồm: Quân đội, Sài Gòn Thương Tín, Kỹ thương Việt Nam, Á Châu và Việt Nam Thịnh Vượng được tổ chức này nâng triển vọng từ “ổn định” lên “tích cực”.
2. Về xử lý nợ xấu
Để triển khai xử lý nợ xấu một cách căn bản, NHNN đã chủ trì, phối hợp các Bộ, ngành có liên quan xây dựng, báo cáo Bộ Chính trị và trình Chính phủ phê duyệt Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD và Đề án thành lập Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) (Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013). Ngay sau đó, NHNN đã có văn bản đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về việc triển khai các nội dung và trách nhiệm được giao tại 02 Đề án trên. Đồng thời, NHNN đã chủ động triển khai các giải pháp kiềm chế nợ xấu gia tăng, nâng cao chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu thông qua các biện pháp cơ cấu lại nợ, thu nợ, xử lý tài sản bảo đảm, bán nợ, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu, tiết giảm chi phí, hạn chế tăng lương, thưởng, thù lao, chia cổ tức, lợi nhuận để tập trung trích lập dự phòng rủi ro, áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết trong việc xử lý nợ xấu...
Bên cạnh đó, NHNN đã khẩn trương thành lập Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) và hoàn thiện hành lang pháp lý để VAMC thực sự là công cụ mua bán nợ hiệu quả, hỗ trợ tích cực cho quá trình xử lý nợ xấu, tạo được niềm tin về tính khả thi của một công cụ xử lý nợ xấu đặc thù. VAMC chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 27/6/2013 và đã tích cực triển khai mua nợ xấu; từng bước triển khai quyết liệt các giải pháp xử lý, thu hồi nợ và cơ cấu lại nợ để hỗ trợ khách hàng vay theo quy định của pháp luật. Trong quá trình hoạt động của VAMC, NHNN đã kịp thời phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tháo gỡ khó khăn, vướng mắc theo hướng trao quyền chủ động hơn cho VAMC trong mua, bán, xử lý nợ xấu của các TCTD. Mô hình hoạt động của VAMC sau gần 02 năm hoạt động được đánh giá là đã phát huy hiệu quả tích cực trong việc xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD.
Sau 3 năm thực hiện (2012-2014), tổng các khoản nợ xấu được xử lý ước đạt 311,1 nghìn tỷ đồng16, tương đương 67% tổng số nợ xấu ước tính tại thời điểm tháng 9/2012 đã được NHNN báo cáo với Bộ Chính trị và Chính phủ khi xây dựng Đề án xử lý nợ xấu. Trong đó, tính lũy kế kể từ khi thành lập đến 31/12/2014, VAMC đã mua trên 137 nghìn tỷ đồng nợ xấu với giá mua nợ trên 111 nghìn tỷ đồng17. Chất lượng tín dụng đang có chiều hướng được cải thiện và được phản ánh chính xác, minh bạch hơn với những nỗ lực của từng TCTD nói riêng và hệ thống ngân hàng cũng như toàn nền kinh tế nói chung.
Nhờ sự chủ động, nỗ lực và quyết tâm của ngành Ngân hàng, nợ xấu đã được kiềm chế và xử lý một khối lượng đáng kể. Theo báo cáo của các TCTD, đến cuối tháng 12/2014, tỷ lệ nợ xấu chiếm 3,25% tổng dư nợ (cuối tháng 12/2013, tỷ lệ nợ xấu là 3,61%). Tính đến cuối năm 2014, tỷ lệ nợ xấu đã bắt đầu giảm liên tiếp và được phản ánh chính xác, minh bạch hơn. Đồng thời, điều này cũng cho thấy chất lượng tín dụng đang có chiều hướng được cải thiện với những nỗ lực của từng TCTD nói riêng và hệ thống ngân hàng cũng như toàn nền kinh tế nói chung. Trong 02 tháng đầu năm 2015, nợ xấu có chiều hướng tăng nhẹ (tỷ lệ nợ xấu là 3,59%), diễn biến này mang tính quy luật khi nợ xấu thường tăng vào các tháng đầu năm và giảm vào tháng cuối năm do tích cực xử lý nợ xấu, tuy nhiên, vẫn trong tầm kiểm soát và không nằm ngoài dự tính của NHNN. NHNN tiếp tục tăng cường chỉ đạo và triển khai các giải pháp xử lý nợ xấu với việc ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 27/01/2015 về tăng cường xử lý nợ xấu của TCTD và các văn bản chỉ đạo các ngân hàng thương mại về việc xây dựng kế hoạch xử lý nợ xấu năm 2015. Theo đó, kế hoạch, biện pháp xử lý nợ xấu năm 2015 phải bảo đảm đến ngày 30/6/2015 xử lý được tối thiểu 60% tổng số nợ xấu phải xử lý theo kế hoạch năm 2015, trong đó chỉ tiêu bán nợ xấu cho VAMC phải đạt ít nhất 75% tổng số nợ xấu dự kiến bán cho VAMC cả năm 2015. Đây là tiền đề để ngành Ngân hàng phấn đấu đạt mục tiêu đưa tỷ lệ nợ xấu về mức dưới 3% vào cuối năm 2015.
Kết quả xử lý nợ xấu đạt được đến nay tiếp tục ghi nhận sự cố gắng của hệ thống các TCTD, nhất là trong điều kiện không có sự hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước; cơ chế, chính sách còn nhiều hạn chế, bất cập và nền kinh tế còn nhiều khó khăn. Điều này cũng thể hiện các giải pháp xử lý nợ xấu được ngành Ngân hàng triển khai quyết liệt, có hiệu quả. Mô hình hoạt động của VAMC chưa từng có tiền lệ bước đầu phát huy hiệu quả tích cực trong việc xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD và hỗ trợ khó khăn cho khách hàng, khẳng định tính đúng đắn của việc lựa chọn công cụ này trong việc xử lý nợ xấu của hệ thống TCTD phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam. Tuy nhiên, những cố gắng của ngành Ngân hàng trong xử lý nợ xấu là chưa đủ bởi vì nợ xấu là vấn đề của nền kinh tế đòi hỏi cần có sự tham gia, hỗ trợ tích cực của các cơ quan, bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Nếu không, việc xử lý nợ xấu sẽ không triệt để và không đạt kết quả như mong muốn.
3. Về tăng cường công tác thanh tra, giám sát
Từ cuối năm 2011 đến nay, hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN đã và đang có những cải cách mạnh mẽ. Các cuộc thanh tra đã được chỉ đạo tiến hành tập trung, thống nhất về mục tiêu, định hướng, đối tượng, nội dung thanh tra theo Kế hoạch được phê duyệt. Phương thức thanh tra được triển khai theo hướng tăng cường thanh tra toàn diện pháp nhân TCTD, kết hợp thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra rủi ro trong hoạt động của TCTD. Từ năm 2011 đến hết Quý I/2015, NHNN đã tiến hành 5.677 cuộc thanh tra, kiểm tra, qua đó đã phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm có tính chất phổ biến tại nhiều TCTD.
Từ năm 2013, trên cơ sở diễn biến thực tế của hệ thống TCTD và qua công tác giám sát, NHNN triển khai tập trung công tác thanh tra các TCTD với các trọng tâm thanh tra nợ xấu, chất lượng tài sản, việc thực hiện phương án cơ cấu lại, đánh giá thực trạng vốn, tài chính và việc chấp hành các quy định của pháp luật. Qua thanh tra, NHNN đánh giá một cách thực chất hơn chất lượng, hiệu quả và mức độ an toàn của TCTD để từ đó có giải pháp cơ cấu lại phù hợp với điều kiện cụ thể của TCTD. Theo đó, nhiều rủi ro, yếu kém, vi phạm pháp luật của các TCTD đã được phát hiện và xử lý nghiêm, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng (tập trung tín dụng cho cổ đông lớn và người có liên quan), đầu tư tài chính, sở hữu cổ phần, cổ đông lớn chi phối, thao túng TCTD, nợ xấu cao, tài sản không sinh lời lớn, kinh doanh thua lỗ hoặc kém hiệu quả, hệ thống quản trị, kiểm soát, kiểm toán nội bộ yếu kém, vi phạm nghiêm trọng các quy định về cơ cấu lại nợ, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro để che giấu nợ xấu, phản ánh sai lệch kết quả kinh doanh. Căn cứ kết quả các cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành ngân hàng, từ năm 2011 đến hết Quý I/2015, căn cứ vào mức độ và hành vi sai phạm, Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng đã ban hành 602 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính (bao gồm 22 Quyết định xử phạt cảnh cáo và 580 quyết định xử phạt tiền) với tổng số tiền 10,9 tỷ đồng và 1.400 USD đối với 582 đơn vị, cá nhân. Đặc biệt, trong năm 2014, bên cạnh việc thanh tra, NHNN còn yêu cầu các TCTD thực hiện kiểm toán độc lập chất lượng tín dụng để nắm bắt đầy đủ và chính xác hơn về tình hình nợ xấu và chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng.
Cùng với việc tăng cường thanh tra, công tác giám sát cũng đã được đổi mới mạnh mẽ, tiến hành thường xuyên và kịp thời theo hướng mở rộng đối tượng, nội dung giám sát, tăng tần suất giám sát để đưa ra những cảnh báo sớm và phục vụ ngày càng hiệu quả hơn cho công tác thanh tra trực tiếp và công tác cơ cấu lại, xử lý nợ xấu. Hoạt động giám sát luôn theo sát diễn biến thị trường và hoạt động của từng TCTD cũng như toàn bộ hệ thống để phát hiện những xu hướng tiêu cực, cảnh báo sớm rủi ro và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
Để tiến gần hơn với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, hoạt động giám sát đang từng bước chuyển dần sang giám sát trên cơ sở rủi ro, trước mắt tập trung vào một số rủi ro trọng yếu. Qua giám sát, đã có cảnh báo sớm đối với những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động như rủi ro tập trung vào đầu tư chứng khoán, tăng đầu tư vào trái phiếu của các tổ chức kinh tế, hoạt động ủy thác và nhận ủy thác của các TCTD, tập trung vốn vào các khách hàng lớn… Đặc biệt, trong năm 2014, công tác giám sát đã có bước tiến nổi bật trong việc ứng dụng, phát triển và triển khai các công cụ giúp cảnh báo sớm rủi ro như mô hình dự báo tài chính (FPM), kiểm tra sức chịu đựng (Stress-testing), đo lường-đánh giá hiệu quả hoạt động (DEA); qua đó, đưa ra những nhận định, cảnh báo đối với một số TCTD trong trường hợp có những thay đổi về chính sách, thay đổi danh mục, cơ cấu đầu tư và một số yếu tố khác.
Trên đây là báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về kết quả thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn gửi các vị Đại biểu Quốc hội. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rất mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, ủng hộ hơn nữa của Đại biểu đối với hoạt động của ngành Ngân hàng./.
| Nơi nhận: - Như trên (05 bản); - Văn phòng Chính phủ (Vụ III); - Lưu VP1. | THỐNG ĐỐC Đã ký: Nguyễn Văn Bình | 
