Trước hết, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Lệ Thủy, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre đối với hoạt động ngân hàng. Về ý kiến chất vấn của Đại biểu Quốc hội nêu tại phiếu chất vấn số 73/PCVK3-GS, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xin báo cáo Đại biểu cụ thể như sau:
1. Câu hỏi 1: “Thị trường chợ đen, mua bán, trao đổi ngoại tệ, nhất là gần đây có vụ chuyển tiền hơn 30.000 tỷ đồng ra nước ngoài, cử tri rất quan tâm.”
Trả lời:
1. Về thị trường chợ đen, mua bán, trao đổi ngoại tệ
Thị trường ngoại tệ phi chính thức không được pháp luật thừa nhận, vì vậy mọi giao dịch mua, bán ngoại tệ trên thị trường phi chính thức là trái pháp luật không được NHNN cấp phép. Việc kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm của thị trường phi chính thức cần có sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành liên quan: Bộ Công an, NHNN, Bộ Công Thương… và UBND các tỉnh, thành phố.
Theo quy định hiện hành của pháp luật về quản lý ngoại hối, người dân có ngoại tệ được bán cho các tổ chức tín dụng (TCTD) được phép hoặc các tổ chức kinh tế được cấp phép làm đại lý đổi ngoại tệ; Khi có nhu cầu mua ngoại tệ, người dân phải mua tại các TCTD được phép trên cơ sở xuất trình chứng từ chứng minh mục đích sử dụng, đảm bảo giao dịch là hợp pháp, hợp lệ.
Trên thị trường ngoại tệ chính thức, những năm qua, tỷ giá và thị trường ngoại tệ tương đối ổn định, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của cá nhân và tổ chức được các TCTD đáp ứng đầy đủ, thị trường hoạt động thông suốt, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ phát triển kinh tế.
2. Về vụ việc chuyển tiền trái phép 30.000 tỷ đồng ra nước ngoài
a) Quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán, chuyển tiền xuyên biên giới
Hoạt động thanh toán, chuyển tiền xuyên biên giới hiện nay được quy định tại Pháp lệnh Ngoại hối; Nghị định 70/2014/NĐ-CP của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của NHNN1, trong đó có các quy định để kiểm soát giao dịch thanh toán, chuyển tiền ra nước ngoài và trách nhiệm của TCTD, khách hàng khi thực hiện giao dịch. Theo đó: (i) khi mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài, khách hàng có trách nhiệm xuất trình các chứng từ theo quy định của TCTD và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các loại giấy tờ, chứng từ xuất trình; (ii) TCTD có trách nhiệm xem xét, kiểm tra, lưu giữ các giấy tờ, chứng từ phù hợp các giao dịch thực tế để đảm bảo việc cung ứng các dịch vụ ngoại hối được thực hiện đúng mục đích và phù hợp với quy định của pháp luật. Đồng thời, TCTD có trách nhiệm báo cáo NHNN: số liệu chuyển tiền thông qua hệ thống báo cáo thống kê các giao dịch có giá trị lớn; khi nghi ngờ hoặc có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc do phạm tội mà có hoặc liên quan tới rửa tiền; giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế ra vào Việt Nam vượt mức giá trị theo quy định của NHNN (từ 1000 Đô la Mỹ trở lên hoặc ngoại tệ khác có giá trị tương đương)…
Về phía Ngân hàng Nhà nước, trên cơ sở kết quả phân tích, xử lý các thông tin nhận được từ các TCTD, cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước, NHNN thường xuyên thanh tra, kiểm tra và cảnh báo, yêu cầu các TCTD kiểm soát chặt chẽ, có biện pháp phòng ngừa sai phạm, đảm bảo các giao dịch chuyển tiền đúng mục đích và phù hợp với quy định của pháp luật; đề nghị các Bộ, ngành liên quan phối hợp với NHNN xác minh, làm rõ các giao dịch đáng ngờ và có biện pháp phát hiện, phòng ngừa việc chuyển tiền bất hợp pháp ra nước ngoài. Từ năm 2016, NHNN đã ban hành 03 văn bản cảnh báo cho các TCTD liên quan đến việc tăng cường phối hợp ngăn chặn hoạt động buôn lậu, gian lận thuế, trốn thuế, rửa tiền, trong đó có đề cập đến hành vi lợi dụng các hợp đồng ngoại thương để chuyển tiền qua biên giới.
b) Về vụ việc cụ thể mà Đại biểu nêu:
Theo báo chí đưa tin, Viện Kiểm sát nhân dân TP Hà Nội vừa hoàn thành cáo trạng truy tố Nguyễn Thị Nguyệt (Sinh năm 1985, ở quận Tây Hồ) cùng 12 bị can khác về tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”. Theo truy tố, năm 2016, thấy nhiều người có nhu cầu thuê chuyển tiền trái phép ra nước ngoài, Nguyệt mua hồ sơ tạm nhập, tái xuất của bị can Phạm Hữu Thuật (41 tuổi, quê Quảng Ninh). Sau đó, Nguyệt cùng đồng phạm hợp thức hồ sơ dưới dạng xuất nhập khẩu hàng hóa để chuyển tiền thông qua 3 doanh nghiệp và 8 công ty "ma" do vợ chồng Nguyệt lập ra, cấu kết với một số nhân viên ngân hàng có chi nhánh ở Móng Cái (Quảng Ninh) để thực hiện các phi vụ chuyển tiền. Cáo trạng thể hiện từ năm 2016 - 2020, sau khi hợp thức được các hồ sơ tạm nhập tái xuất, Nguyệt cùng đồng phạm nhiều lần vận chuyển trái phép tổng số tiền 30.000 tỷ đồng ra nước ngoài. Qua đó, Nguyệt thu lời bất chính gần 30,5 tỷ đồng2.
Từ năm 2017, NHNN đã tiếp nhận các báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các TCTD liên quan đến các cá nhân nằm trong đường dây của Nguyễn Thị Nguyệt. Trên cơ sở phân tích thông tin giao dịch đáng ngờ, NHNN đã chuyển giao thông tin cho các đơn vị thuộc Bộ Công an và Công an thành phố Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng để tiến hành điều tra làm rõ vụ việc. Hiện nay, NHNN đang tiếp tục phối hợp cung cấp thông tin cho Công an tỉnh Quảng Ninh để phục vụ quá trình điều tra vụ án.
2. Câu hỏi 2: “Thị trường ngầm, tín dụng đen còn bỏ ngỏ, chưa được quản lý hiệu quả, trong buổi đối thoại với Thủ tướng của công nhân lao động, công nhân phản ánh rất nhiều.”
Trả lời:
* Theo Chỉ thị 12/CT-TTg ngày 25/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ3, Bộ Công An được giao là đơn vị đầu mối trong tham mưu, triển khai các nhiệm vụ về phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động “tín dụng đen”. NHNN với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, có trách nhiệm hoàn thiện cơ sở pháp lý, chỉ đạo điều hành, triển khai các giải pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp khi vay vốn tổ chức tín dụng (TCTD), qua đó góp phần hạn chế, đẩy lùi “tín dụng đen”.
Với vai trò, trách nhiệm của mình, thời gian qua, NHNN đã chủ động triển khai nhiều giải pháp cụ thể như:
- Hoàn thiện khung khổ pháp lý về hoạt động cho vay, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển các dịch vụ trực tuyến hỗ trợ hoạt động vay vốn của người dân, doanh nghiệp: Từ đầu năm 2019 đến nay, NHNN đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng, trong đó, đã sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều quy định để tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức, hỗ trợ hoạt động vay vốn của người dân, doanh nghiệp4.
- Điều hành tín dụng theo hướng mở rộng tín dụng hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, nhất là lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn (là nơi dễ phát sinh hoạt động “tín dụng đen”). Đến ngày 30/06/2022, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đạt 11,4 triệu tỷ đồng, tăng 9,35% so với cuối năm 2021; trong đó, dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn chiếm 25% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế, với hơn 14 triệu khách hàng, tăng 7,63% so với cuối năm 2021. Cho vay phục vụ đời sống, tiêu dùng với dư nợ đạt 2,32 triệu tỷ đồng, chiếm 22,22% dư nợ nền kinh tế, tăng 11,56% so với cuối năm 2021.
- Triển khai mạnh mẽ, sâu rộng chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng; chỉ đạo các TCTD thực hiện các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng; đa dạng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đơn giản hóa thủ tục cho vay, niêm yết công khai, minh bạch các thủ tục, quy trình vay vốn; nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm khách hàng để tăng cường cho vay không có bảo đảm bằng tài sản;...
- Triển khai Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu nhằm tăng khả năng tiếp cận tài chính tới mọi người dân và doanh nghiệp, trong đó đặc biệt chú trọng tới nhóm đối tượng mục tiêu là những người chưa được tiếp cận hoặc ít được tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ tài chính.
- Phát triển mạng lưới TCTD, các công ty tài chính, tổ chức tài chính vi mô phủ khắp các vùng miền nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn chính đáng của người dân. Đến nay, toàn hệ thống đã có 124 TCTD và gần 1.200 Quỹ TDND; đã có 16 công ty tài chính được cấp phép hoạt động với 17 chi nhánh, 41 văn phòng đại diện và 74.337 điểm giới thiệu dịch vụ trên toàn quốc; 04 tổ chức tài chính vi mô được cấp phép hoạt động với 64 chi nhánh và 59 phòng giao dịch thuộc 24 tỉnh, thành phố.
- Đối với các đối tượng chính sách, người nghèo, người không có tài sản bảo đảm, người lao động có thu nhập thấp: hiện Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đã và đang triển khai 26 chương trình tín dụng chính sách (trong đó, 03 chương trình tín dụng chính sách mới theo Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội5). Tổng dư nợ các chương trình tín dụng tại NHCSXH đến cuối tháng 5/2022 đạt 266.993 tỷ đồng, tăng 7,67% so với cuối năm 2021, với gần 8 triệu khách hàng còn dư nợ.
- Tăng cường hoạt động truyền thông về cơ chế, chính sách cho vay, xây dựng và triển khai các chương trình giáo dục tài chính trên truyền hình và các phương tiện truyền thông đại chúng để nâng cao nhận thức của người dân về các sản phẩm, dịch vụ tài chính; cảnh báo các hệ lụy để người dân phòng, tránh “tín dụng đen”.
* Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của người dân, doanh nghiệp góp phần hạn chế “tín dụng đen”, trong đó đặc biệt tập trung: (i) Rà soát, hoàn thiện các văn bản quy định về hoạt động cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tiêu dùng; (ii) Khuyến khích các TCTD phát triển mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; (iii) Chỉ đạo TCTD tập trung nguồn vốn, đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, nhu cầu đời sống, tiêu dùng chính đáng của người dân; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển các dịch vụ cho vay, thanh toán trực tuyến, gắn với cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục vay vốn; (iv) Triển khai đồng bộ các giải pháp, nhiệm vụ được giao của ngành ngân hàng tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; (v) Triển khai giải pháp thúc đẩy tài chính toàn diện, chuyển đổi số ngành ngân hàng, tạo điều kiện cho các TCTD phát triển các sản phẩm cho vay phục vụ đời sống, tín dụng tiêu dùng an toàn, hiệu quả; (vi) Tiếp tục hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho NHCSXH trong hoạt động tín dụng chính sách xã hội để đáp ứng tốt hơn nhu cầu vay vốn của hộ nghèo, các đối tượng chính sách; (vii) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; chỉ đạo các CTTC tiêu dùng tập trung chấn chỉnh lại hoạt động cho vay, có chính sách lãi suất phù hợp, thu nợ bảo đảm minh bạch, đúng quy định pháp luật; (viii) Tăng cường công tác truyền thông về các cơ chế, chính sách tín dụng ngân hàng đến mọi tầng lớp nhân dân.
3. Câu hỏi 3: “Tình trạng cho vay trên tài sản đảm bảo có giá trị thiếu ổn định, dễ bị chi phối do lũng đoạn chứng khoán thời gian qua như cổ phiếu, trái phiếu… dễ gây nợ xấu, chưa có những giải pháp hữu hiệu.”
Trả lời:
Về nguyên tắc, theo quy định của pháp luật hiện hành, TCTD được cho vay có tài sản hoặc không có tài sản bảo đảm để tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hệ thống ngân hàng.
Thông tư số 11/2021/TT-NHNN ngày 30/7/2021 về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh NHNNg, quy định: Quy định nội bộ (của TCTD) về cấp tín dụng, quản lý nợ phải “có quy định về định giá tài sản bảo đảm, bao gồm nguyên tắc, định kỳ, phương pháp, quy trình và trách nhiệm của từng đơn vị, cá nhân có liên quan đến việc định giá tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật để đảm bảo giá trị tài sản bảo đảm phù hợp với giá trị thị trường khi tính số tiền trích lập dự phòng cụ thể theo quy định tại Thông tư này”6.
Căn cứ các điều khoản tại quy định nội bộ, TCTD sẽ thực hiện định giá lại tài sản bảo đảm để làm cơ sở trích lập dự phòng rủi ro theo quy định pháp luật, góp phần đánh giá trình trạng khoản vay và hạn chế rủi ro.
Trong thời gian gần đây, trước những biến động của thị trường chứng khoán, NHNN đã yêu cầu các TCTD định kỳ hàng tháng báo cáo tình hình cấp tín dụng cho khách hàng có tài sản bảo đảm là cổ phiếu nhằm tăng cường giám sát đối với các khoản cấp tín dụng này, góp phần hạn chế rủi ro và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. Đồng thời, NHNN đã chỉ đạo các TCTD giám sát chặt chẽ chất lượng các khoản cấp tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro (bao gồm bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp...), tăng cường công tác thẩm định, thực hiện định giá tài sản bảo đảm là bất động sản, nhất là bất động sản tại các khu vực đang có hiện tượng sốt đất đảm bảo phản ánh đúng giá trị thực, khách quan, minh bạch, đúng quy định pháp luật...
Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục giám sát chặt chẽ tình hình cấp tín dụng cho khách hàng có tài sản bảo đảm là cổ phiếu để kịp thời phát hiện dấu hiệu rủi ro, vi phạm pháp luật và có biện pháp phòng ngừa, xử lý phù hợp. Đồng thời, chỉ đạo các TCTD giám sát chặt chẽ tình hình khoản vay, thực hiện thẩm định/định giá tài sản bảo đảm sát với giá trị thực, đúng quy định pháp luật.
4. Câu hỏi 4: “Cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng thương mại, thiếu minh bạch trong cho vay, thu hộ (như lãi tiền gửi ngoại tệ; cho vay qua hình thức thu hộ trả góp khi mua sản phẩm trả góp của các công ty điện máy, cạnh tranh qua giá dịch vụ nhắn tin Ebanking...). Xin Thống đốc cho biết có những hiện tượng và tồn tại đó không? Những giải pháp trong thời gian tới.”
Trả lời:
Thời gian qua, các TCTD đã tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ để đa dạng hóa các sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, đơn giản hóa thủ tục cho vay, niêm yết công khai, minh bạch các thủ tục, quy trình vay vốn... tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng.
* Về cho vay qua hình thức thu hộ trả góp:
Việc mua hàng trả góp có thể nằm trong các chương trình khuyến mãi, kích thích tiêu dùng của nhà sản xuất hoặc các nhà phân phối (cửa hàng điện máy, điện thoại…). Hoạt động này có thể được thực hiện dưới hình thức tín dụng thương mại do nhà sản xuất/nhà phân phối hỗ trợ người tiêu dùng được trả chậm với lãi suất 0%. Ngân hàng thương mại có thể tham gia với vai trò cung cấp dịch vụ thu hộ cho nhà sản xuất/nhà phân phối, việc thu phí dịch vụ thực hiện theo thỏa thuận giữa các bên theo hợp đồng.
Hoạt động cho vay của TCTD được quy định tại Luật các TCTD, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 31/12/2016 và các văn bản pháp luật có liên quan, trong đó, đã quy định rõ trách nhiệm của TCTD, đảm bảo công khai, minh bạch, an toàn, lành mạnh, hiệu quả, bảo vệ quyền lợi chính đáng của khách hàng. Trường hợp ngân hàng thương mại tham gia cho vay trả góp để khách hàng mua hàng thì phải được thể hiện bằng hợp đồng/thỏa thuận cho vay giữa ngân hàng và khách hàng vay theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Luật các TCTD (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định ngân hàng được thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngân hàng, dịch vụ thu hộ và chi hộ (ngân hàng chỉ thu hộ tiền hàng hóa, dịch vụ theo yêu cầu của bên cung cấp hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở hợp đồng thu hộ giữa ngân hàng và bên cung cấp hàng hóa, dịch vụ). Việc thu phí dịch vụ thực hiện theo thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng.
* Về lãi tiền gửi ngoại tệ:
Để đảm bảo tuân thủ các quy định về lãi suất huy động ngoại tệ, NHNN đã có văn bản chỉ đạo, chấn chỉnh, yêu cầu các TCTD, chi nhánh NHNNg: (i) Chấp hành đúng mức lãi suất huy động được NHNN quy định; không áp dụng các biện pháp kỹ thuật để lách, vượt trần lãi suất huy động; nghiêm cấm cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn; (ii) Tự kiểm tra, phát hiện những vi phạm về mức lãi suất huy động; chỉ đạo chấn chỉnh, xử lý nghiêm người đứng đầu các chi nhánh, đơn vị của TCTD xảy ra vi phạm, không chấp hành quy định của NHNN; (iii) Chủ động phát hiện và báo cáo về NHNN những TCTD cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm quy định về mức lãi suất huy động ngoại tệ.
Đồng thời, chỉ đạo NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố có văn bản chỉ đạo các TCTD trên địa bàn chấp hành nghiêm các quy định của NHNN về lãi suất huy động ngoại tệ; tổ chức thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của NHNN về lãi suất huy động bằng ngoại tệ, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm.
* Về giá dịch vụ nhắn tin Ebanking (SMS banking):
Trong cơ cấu phí dịch vụ này bao gồm một số chi phí đầu vào TCTD phải trả cho các tổ chức khác như: cước phí tin nhắn viễn thông, chi phí đường truyền, thuê bao trả cho các công ty viễn thông,... Nhằm giảm phí dịch vụ này, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Bộ Thông tin và truyền thông, đại diện các ngân hàng hội viên và đại diện ba nhà mạng lớn tại Việt Nam (Viettel,VNPT, Mobifone) đã họp và thống nhất để các ngân hàng chủ động làm việc trực tiếp với các nhà mạng và ký hợp đồng với từng doanh nghiệp viễn thông để thống nhất mức phí SMS Banking của ngân hàng mình trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của ngân hàng và khách hàng.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng, TCTD được quyền ấn định và niêm yết công khai mức phí áp dụng trong cung ứng dịch vụ. Để đảm bảo môi trường cạnh tranh minh bạch, NHNN thường xuyên nắm bắt, theo dõi tình hình thu phí của các TCTD; đồng thời, yêu cầu TCTD báo cáo các biểu phí, những thay đổi phí các dịch vụ để xem xét, phát hiện ra những bất cập và chỉ đạo các TCTD thực hiện đúng quy định. Nhờ đó, thời gian qua, các TCTD đều nghiêm túc phổ biến và hướng dẫn cho khách hàng đầy đủ các thông tin liên quan đến các loại phí dịch vụ của đơn vị mình cũng như cập nhật, công bố và niêm yết công khai dưới nhiều hình thức như trên website ngân hàng, tại trụ sở, chi nhánh và điểm giao dịch…
Thời gian tới, NHNN tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các TCTD, nhằm sớm phát hiện các dấu hiệu sai phạm để kịp thời có biện pháp cảnh báo, xử lý, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống các TCTD và quyền lợi của khách hàng. Trường hợp khách hàng nhận thấy có dấu hiệu vi phạm quy định, cạnh tranh không lành mạnh, thiếu minh bạch trong cho vay của các ngân hàng thương mại, khách hàng có thể phản ánh và cung cấp thông tin đầy đủ cho NHNN chi nhánh trên địa bàn để kịp thời xử lý.
Câu hỏi 5: “Rào cản để người dân tiếp cận vay vốn còn xảy ra qua nhiều hình thức: trả phí đổi chứng minh nhân dân sang căn cước công dân 230.000 đồng. Khi làm thủ tục vay vốn hoặc đáo hạn ngân hàng. Xin Thống đốc cho biết có hiện tượng này không? Những khó khăn, bất cập khi chia sẻ dữ liệu công dân của ngành công an đang quản lý?”
Trả lời:
1. Về hiện tượng thu phí khi làm thủ tục vay:
Theo quy định tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN, TCTD và khách hàng được thoả thuận về việc thu các khoản phí liên quan đến hoạt động cho vay, gồm: Phí trả nợ trước hạn trong trường hợp khách hàng trả nợ trước hạn; phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng; phí thu xếp cho vay hợp vốn; phí cam kết rút vốn kể từ thời điểm thỏa thuận cho vay có hiệu lực đến ngày giải ngân vốn vay lần đầu và các loại phí khác liên quan đến hoạt động cho vay được quy định cụ thể tại văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
Theo đó, ngoài các loại phí quy định tại Thông tư 39, TCTD không được thu các loại phí khác liên quan đến hoạt động cho vay.
2. Về triển khai chia sẻ dữ liệu công dân của ngành công an đang quản lý:
Ngày 18/02/2022, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 171/QĐ-NHNN ban hành Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ việc chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030. Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã và đang phối hợp với Bộ Công an triển khai kết nối, khai thác cơ sở dữ liệu về dân cư phục vụ phát triển chuyển đổi số ngành Ngân hàng, cung cấp dịch vụ cho người dân, xã hội.
Từ tháng 5/2022, một số ngân hàng thương mại đã cung cấp dịch vụ thử nghiệm xác thực bằng căn cước công dân (CCCD) gắn chíp để xác thực khách hàng qua khuôn mặt, vân tay, thực hiện các giao dịch nộp và rút tiền, chuyển khoản trên các máy giao dịch tự động ATM/CRM hoặc trên các kênh khách hàng tự phục vụ mà không phải vào quầy giao dịch. Thẻ CCCD gắn chíp có thông tin cả số CMND cũ, số CCCD mới và được tích hợp xác thực người dân qua ảnh chân dung, vân tay. Do đó, khi người dân có nhu cầu cập nhật số CMND/CCCD cũ thì chỉ cần mang thẻ CCCD gắn chíp và sẽ được ngân hàng thực hiện cập nhật thông tin. Trong thời gian tới, các đơn vị trong ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục phối hợp và đề xuất Bộ Công an cho phép kết nối CSDL quốc gia về dân cư để khai thác thông tin cá nhân của khách hàng phục vụ các hoạt động nghiệp vụ như: khai thác thông tin về thuế, lương, bảo hiểm xã hội, trả tiền điện nước,… nhằm đánh giá khách hàng trong việc cho vay tín chấp và các loại hình cho vay khác.
Tuy nhiên, để quá trình triển khai được thuận lợi và có kết quả cần thực hiện một số nội dung sau:
(i) Ban hành Nghị định định danh và xác thực điện tử, tạo căn cứ pháp lý cho hoạt động xác thực điện tử thông qua khai thác CCCD gắn chip, so khớp thông tin công dân/khách hàng với CSDL quốc gia về dân cư, CSDL CCCD; ứng dụng tài khoản định danh và xác thực điện tử (VNEID), qua đó tạo thuận lợi cho người dân thực hiện các giao dịch trên môi trường số một cách thuận tiện, an toàn.
(ii) Ban hành các hướng dẫn (như hướng dẫn thủ tục kết nối, điều kiện kỹ thuật, API…) để TCTD có thể khai thác thông tin trong CSDL quốc gia về dân cư theo quy định tại Nghị định 137/2015/NĐ-CP phục vụ hoạt động nghiệp vụ ngân hàng (như làm sạch cơ sở dữ liệu khách hàng, phục vụ công tác phòng chống rửa tiền, ngăn ngừa tội phạm gian lận, lừa đảo tại các TCTD…).
Trên đây là ý kiến trả lời của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về nội dung chất vấn của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Lệ Thủy. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kính mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, ủng hộ hơn nữa của Đại biểu đối với hoạt động của ngành Ngân hàng.
Trân trọng cảm ơn Đại biểu./.