Trước hết, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của Đại biểu Quốc hội Hà Sỹ Đồng, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị đối với hoạt động ngân hàng. Về ý kiến chất vấn của Đại biểu Quốc hội nêu tại phiếu chất vấn số 24/PCVK5-GS, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xin báo cáo Đại biểu cụ thể như sau:
1. Câu hỏi 1: “Mặt bằng lãi suất thực cho vay doanh nghiệp và người dân đứng ở mức cao và khá lâu so với nhiều nước trong khu vực, là một thực tế khá nhức nhối. Ghi nhận những động thái chính sách và biện pháp điều hành nghiệp vụ của Thống đốc thời gian qua, nhưng thật khó phủ nhận rằng hiệu lực, hiệu quả của chúng đối với mục tiêu cuối cùng mà Quốc hội và Chính phủ yêu cầu, không đạt mong muốn. Thống đốc giải thích thế nào về đánh giá này? Thực ra cơ chế điều hành lãi suất ở ta có vận hành thực chất không?”
Trả lời:
Từ năm 2021 để kiểm soát lạm phát, ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã thu hẹp việc nới lỏng chính sách tiền tệ, điều chỉnh tăng lãi suất và tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ neo giữ lãi suất ở mức cao1. Tại Việt Nam, sau giai đoạn nới lỏng chính sách tiền tệ từ đầu năm 2020 để hỗ trợ nền kinh tế ứng phó với đại dịch, đến tháng 9/2022, NHNN điều chỉnh tăng lãi suất điều hành và là một trong những ngân hàng trung ương cuối cùng điều chỉnh tăng lãi suất nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng; bước sang năm 2023, để hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân, NHNN là một trong những ngân hàng trung ương đầu tiên trên thế giới điều chỉnh giảm lãi suất điều hành. Cụ thể:
Thực hiện chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về giảm lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân, NHNN đã điều chỉnh giảm liên tục 04 lần các mức lãi suất điều hành trong các tháng 3, 4, 5 và 6 năm 2023 với tổng mức giảm 0,5-2,0%/năm, trong bối cảnh lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao. Việc liên tục điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành là giải pháp linh hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay để hỗ trợ quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Quốc hội và Chính phủ, qua đó tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đồng thời, thông qua việc điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, kết hợp mua ngoại tệ và cho vay hỗ trợ thanh khoản, thời gian qua, NHNN đã cung ứng một lượng tiền lớn cho nền kinh tế để tiếp tục góp phần giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân. Bên cạnh đó, NHNN thực hiện nhiều biện pháp để giảm lãi suất cho vay như: (i) Khuyến khích tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để ổn định mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh; (ii) Làm việc với các ngân hàng thương mại đề nghị tiếp tục giảm lãi suất tiền gửi và cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế phục hồi sản xuất kinh doanh trong tháng 2 và tháng 5/2023…
Trên cơ sở chỉ đạo, điều hành của NHNN, đến nay mặt bằng lãi suất đã có xu hướng giảm, cụ thể: Lãi suất tiền gửi bình quân của các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng thương mại ở mức 5,8%/năm, giảm khoảng 0,7% so với cuối năm 2022; lãi suất cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng thương mại ở mức 8,9%/năm, giảm khoảng 1,0%/năm so với cuối năm 2022; dự báo mặt bằng lãi suất sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới do độ trễ của chính sách tiền tệ cần có thời gian để thẩm thấu. Mặc dù mặt bằng lãi suất đã có xu hướng giảm, tuy nhiên tốc độ giảm còn chậm. Nguyên nhân là do:
- Nợ xấu có xu hướng tăng dẫn đến chi phí hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng tăng.
- Huy động vốn tăng chậm trong khi đó các tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023 các tổ chức tín dụng huy động vốn với lãi suất ở mức cao và các khoản huy động này chưa đến thời hạn thanh toán.
- Thông tư số 02/2023/TT-NHNN ban hành ngày 23/4/2023 cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng gặp khó khăn tức là tổ chức tín dụng chưa thu nợ khi đến hạn trong khi tổ chức tín dụng vẫn phải đảm bảo chi trả tiền gửi, làm giảm doanh số cho vay và chậm lại vòng quay vốn trong nền kinh tế, gây áp lực trở lại lên khả năng cân đối vốn và dư địa giảm lãi suất.
- Mặt bằng lãi suất thế giới tiếp tục gia tăng và vẫn ở mức cao trong các tháng đầu năm 2023, các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp tục tăng lãi suất và neo giữ ở mức cao.
- Thị trường vốn chưa phát triển, hoạt động sản xuất kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng (tỷ lệ tín dụng/GDP cuối năm 2022 ở mức 125,34%2), ngân hàng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn (khoảng 88% tiền gửi là kỳ hạn 12 tháng trở xuống) nhưng vẫn phải đáp ứng các nhu cầu cho vay trung dài hạn (trên 52% dư nợ tín dụng VND của hệ thống là trung dài hạn). Sau dịch Covid-19, kinh tế phục hồi trở lại nên nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh gia tăng, hệ thống ngân hàng sử dụng tối đa nguồn huy động cho phép để đáp ứng vốn cho nền kinh tế.
2. Câu hỏi 2: “Thực tế tốc độ tăng của chỉ số CPI lõi so tháng liền trước ở ta gần như liên tục giảm kể từ tháng 9/2022 tới nay, tương đồng với thực trạng suy yếu của tổng cầu trong hơn 2 quý qua. Khả năng này có thể tiếp tục trong ít nhất 2 quý tới. Xin Thống đốc cho biết, Thống đốc còn quan ngại về chỉ tiêu lạm phát năm nay không đạt không? Nếu khá yên tâm rồi, Thống đốc có mạnh dạn và quyết liệt triển khai định hướng giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp và người dân, qua đó góp phần tích cực hơn thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế theo chủ trương của Quốc hội và Chính phủ.”
Trả lời:
Theo số liệu thực tế của Tổng Cục thống kê công bố cho thấy trong những tháng cuối năm 2022, chỉ số CPI lõi (lạm phát cơ bản) của Việt Nam có mức tăng so với tháng trước dao động trong khoảng 0,33%-0,47%, là mức tăng tương đối cao, khiến lạm phát cơ bản so với cùng kỳ tăng khá nhanh và liên tục (tăng từ mức 3,06% trong tháng 8/2022 lên mức 4,99% trong tháng 12/2022).
Bước sang 5 tháng đầu năm 2023, lạm phát CPI và lạm phát cơ bản trong nước liên tục tăng chậm lại chủ yếu do giá hàng hóa, dịch vụ giảm và sức cầu trong nước yếu. So với cùng kỳ, lạm phát CPI tháng 5 giảm nhanh về mức 2,43%3, bình quân 5 tháng đầu năm 2023 là 3,55% - thấp hơn mục tiêu 4,5%; lạm phát cơ bản cũng giảm dần về mức 4,54%,4 tuy nhiên tốc độ giảm chậm hơn đáng kể so với lạm phát CPI.
Như vậy, diễn biến lạm phát nêu trên cho thấy việc đạt được mục tiêu lạm phát bình quân cả năm 2023 khoảng 4,5% là khả thi và phù hợp với nhận định lạc quan của nhiều tổ chức quốc tế (khoảng 3,0-5,5%5), nhờ một số yếu tố chính hỗ trợ như: (i) Triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại kéo theo triển vọng tăng trưởng kinh tế trong nước còn nhiều khó khăn, chi tiêu của người dân tuy phục hồi nhưng vẫn chưa đủ mạnh; (ii) Giá hàng hóa cơ bản thế giới (xăng dầu, phi năng lượng,…) được các tổ chức quốc tế (IMF, WB, EIA) dự báo giảm từ nay đến cuối năm 20236 trong bối cảnh kinh tế thế giới dự kiến tăng trưởng chậm lại, tiềm ẩn nguy cơ suy thoái kinh tế tại các nước phát triển, giúp giảm bớt áp lực lên lạm phát trong nước; (iii) Việc thực hiện giải pháp hỗ trợ giảm thuế VAT (dự kiến trong 6 tháng cuối năm 2023) không chỉ giúp hạn chế tác động trực tiếp lên lạm phát mà còn hỗ trợ kiểm soát lạm phát kỳ vọng.
Tuy nhiên, diễn biến lạm phát cơ bản nêu trên khiến chúng ta không thể chủ quan với rủi ro lạm phát vì mặt bằng lạm phát cơ bản đang ở mức rất cao trong lịch sử7, cho thấy sự gia tăng dai dẳng của mặt bằng giá cả và là dấu hiệu cảnh báo trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Đồng thời, vẫn còn nhiều yếu tố tiềm ẩn rủi ro gia tăng lạm phát chung trong nước như: (i) Áp lực tăng giá các mặt hàng Nhà nước quản lý (điện, nước, y tế, giáo dục) theo lộ trình sau khi đã hoãn lộ trình điều chỉnh sau hơn 03 năm bị trì hoãn để hỗ trợ người dân vượt qua đại dịch Covid-19 là yếu tố tạo áp lực lớn lên lạm phát năm 2023; (ii) Lương cơ bản dự kiến tăng (kể từ 1/7/2023) sau 3 năm bị hoãn sẽ làm tăng tổng cầu thông qua chi tiêu và đầu tư của hộ gia đình; (iii) Diễn biến xung đột chính trị - quân sự tại một số quốc gia, khu vực có thể gia tăng trở lại, làm gia tăng rủi ro đối với giá các mặt hàng năng lượng (xăng dầu, chất đốt) và nguyên, vật liệu khác; (iv) Giá lương thực, thực phẩm tiềm ẩn rủi ro tăng do diễn biến thời tiết, dịch bệnh khó lường, cùng với nhu cầu trong nước và Trung Quốc tăng, trong khi giá các yếu tố đầu vào (phân bón, thức ăn chăn nuôi…) vẫn ở mức cao; (v) Sản xuất của nền kinh tế suy yếu, có thể gây ra thiếu cung, giá một số mặt hàng có thể tăng.
Ngoài ra, với độ mở nền kinh tế lớn, ngoài mục tiêu lạm phát, điều hành chính sách tiền tệ còn phải ổn định thị trường ngoại tệ và tỷ giá. Trong bối cảnh lãi suất đồng USD quốc tế neo ở mức cao (hiện là 5-5,25%/năm) và còn có thể tiếp tục tăng trong thời gian tới, lãi suất VND cần có mức chênh lệch hợp lý với lãi suất USD để duy trì lợi ích của việc nắm giữ VND, bảo đảm giá trị VND, từ đó hạn chế tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ, không tạo áp lực đến tỷ giá. Nếu tỷ giá tăng quá cao (đồng VND mất giá) có thể dẫn đến lạm phát nhập khẩu, qua đó ảnh hưởng đến lạm phát CPI. Thực tế điều hành nhiều năm qua đã chứng minh rõ điều này. Việc duy trì sự ổn định của thị trường ngoại tệ và tỷ giá cũng là yếu tố quan trọng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
Như vậy, trong hơn 5 tháng đầu năm 2023, trước bối cảnh tỷ giá ổn định trở lại và lạm phát có xu hướng giảm tốc, NHNN đã quyết liệt thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp để phấn đấu giảm lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục bám sát diễn biến lạm phát và kinh tế vĩ mô, triển khai quyết liệt các giải pháp để giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế phục hồi trên cơ sở lạm phát được kiểm soát và kinh tế vĩ mô ổn định. NHNN sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng chắc chắn, chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp hài hòa, hợp lý, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, triển khai các giải pháp để giảm lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp và hỗ trợ nền kinh tế phục hồi; đồng thời, việc điều hành lãi suất nói riêng hay điều hành chính sách tiền tệ nói chung cần được thực hiện trong tổng thể điều hành chính sách kinh tế vĩ mô để đảm bảo cân đối hài hòa nhất các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Trên đây là ý kiến trả lời của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về nội dung chất vấn của Đại biểu Quốc hội Hà Sỹ Đồng. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kính mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, ủng hộ hơn nữa của Đại biểu đối với hoạt động của ngành Ngân hàng.
Trân trọng cảm ơn Đại biểu./.
1 Năm 2021 có 113 lượt tăng lãi suất; năm 2022 có trên 70 NHTW đã điều chỉnh tăng lãi suất với 367 lượt tăng; các tháng đầu năm 2023 có 99 lượt tăng và 21 lượt giảm lãi suất (trong đó trên 40 NHTW tăng và khoảng 11 NHTW điều chỉnh giảm lãi suất).
2 Tính theo GDP đánh giá lại của TCTK
3 Lạm phát CPI so với cùng kỳ: T12/22: 4,55%; T1/23: 4,89%); T2/23: 4,31%; T3/23: 3,35%; T4/23: 2,81%.
4 Lạm phát cơ bản so với cùng kỳ: T12/22: 4,99%; T1/23: 5,21%; T2/23: 4,96%; T3/23: 4,88%; T4/23: 4,56%.
5 Dự báo lạm phát 2023: IMF (4/2023): 5,0%; WB (3/2023): 4,5%; HSBC (4/2023): 4%; ADB (4/2023): 4,5%; Standard Chartered (2/2023): 5,5%; dự thảo báo cáo AREO của AMRO (2/2023): 3,0%.
6 Giá dầu WTI bình quân năm 2023 dự báo khoảng 69,94-79,27 USD/thùng, tương ứng giảm khoảng 5,07-5,57% so với bình quân năm 2022; Chỉ số giá phi năng lượng WB bình quân năm 2023 dự báo giảm 9,57%.
7 Kể từ khi Tổng cục thống kê công bố lạm phát cơ bản từ năm 2016, lạm phát cơ bản lần đầu tiên tăng trên 4% kể từ tháng 10/2022 và kéo dài tới nay.