Skip to Main Content
Lỗi

State bank of vietnam portal

the state bank of viet nam

|
  • News
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Statistics
    • Balance of International Payment
    • Total Liquidity
      • Total Liquidity & Deposits with Credit Institutions
      • Cash in Total liquidity
    • Settlements
      • National Payment System Transactions
      • Domestic Transactions by Means of Payment
      • Trasactions via ATM.POS/EFTPOS/EDC
      • Number of Bank Cards
      • Deposits in Indivisudual Payment Accounts
      • List of Non-Bank Payment Service Suppliers
    • Credit to the Economy
    • Performance of Credit Institutions
      • Key Statistical RatiosKey Statistical Ratios
      • Ratio of loan outstanding over total deposits
      • Ratio of NPLs over Total Loan Outstanding
  • News
  • Press Release
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Statistics
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Legal Documents
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • About SBV
    • History
    • Major Responsibilities
    • Management Board
    • Former Governors
Trang chủ
  • News
  • Press Release
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Statistics
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Legal Documents
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • About SBV
    • History
    • Major Responsibilities
    • Management Board
    • Former Governors
  • Fintech - Nghiên cứu trao đổi
  • Chuyên đề khác

Ngành Ngân hàng trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

26/08/2016 07:00:00
0:00
/
0:00
Giọng Nam
  • Giọng Nam
  • Giọng Nữ

Chúng ta đang đứng trước thềm một cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (FIR), tác động sâu sắc đến các chính phủ, doanh nghiệp và người dân, đem đến cả về cơ hội cũng như thách thức. Những thay đổi toàn diện và sâu rộng này báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị của xã hội loài người. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập những tác động chủ yếu đến ngành Ngân hàng và một số giải pháp để nắm bắt cơ hội tốt hơn, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực của cuộc cách mạng này.

Cho đến thời điểm này, thế giới đã chứng kiến 3 cuộc cách mạng công nghiệp lớn. Lần thứ nhất diễn ra tại Vương quốc Anh vào cuối thế kỷ 18, khi phát minh ra động cơ hơi nước và ứng dụng vào việc cơ khí hóa các ngành sản xuất. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 diễn ra vào đầu thế kỷ 20, khi năng lượng điện được sử dụng để sản xuất hàng loạt với quy mô lớn. Lần thứ 3 bắt đầu vào những năm 70 của thế kỷ trước, cùng với sự phát triển của máy tính, các thiết bị điện tử và công nghệ thông tin được sử dụng để tự động hóa sản xuất. Giờ đây, một cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư được tiếp nối, đặc trưng bởi sự hợp nhất, không có ranh giới giữa các lĩnh vực công nghệ vật lý, kỹ thuật số, sinh học.

Nhờ phát minh và sử dụng linh hoạt động cơ hơi nước, Vương quốc Anh đã biến mình trở thành “công xưởng của thế giới” đi đầu trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Sau đó, phương phức sản xuất hàng loạt mà tiêu biểu là Ford ra đời đã đưa nước Mỹ vượt lên ngôi đầu trong cuộc cách mạng lần hai. Đến cuối thế kỷ 20 - thời kỳ được mệnh danh “thần kỳ Nhật Bản”, chứng kiến bước nhảy vọt của các doanh nghiệp ô tô và điện máy nhờ xây dựng sản phẩm chất lượng cao “Made in Japan”

Có ba lý do giải thích những thay đổi diễn ra trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư này không phải là sự kéo dài của cuộc cách mạng công nghiệp thứ ba, mà là sự xuất hiện của một cuộc cách mạng mới, khác biệt. Đó là, tốc độ, phạm vi và các tác động. Tốc độ của bước đột phá hiện tại là không có tiền lệ trong lịch sử khi so sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc cách mạng lần thứ tư được phát triển với tốc độ của một hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Cuộc cách mạng này cũng sẽ tác động sâu sắc đến các chính phủ, doanh nghiệp và người dân, đem lại cả về cơ hội cũng như thách thức. Những thay đổi toàn diện và sâu rộng này báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị của xã hội loài người.

Cuộc cách mạng lần này được đánh giá sẽ vượt ra khỏi quy mô công xưởng, doanh nghiệp khi vạn vật được kết nối bởi internet (Internet of Thing). Cụ thể, tất cả máy móc, thiết bị trong công xưởng được kết nối với nhau thông qua internet, đồng thời nhiều cảm biến được lắp đặt để thu thập dữ liệu. Cách làm này giúp máy móc có thể “giao tiếp” với nhau mà không cần sự có mặt của con người, dây chuyền sản xuất sẽ được vận hành tự động một cách thích hợp, ứng với lượng hàng tồn kho. Ngoài ra, các doanh nghiệp sản xuất chi tiết cũng sẽ kết nối với doanh nghiệp lắp ráp, doanh nghiệp vận chuyển, đại lý phân phối và tiêu thụ để hình thành một thể thống nhất. Điều này cũng có nghĩa là, cuộc cách mạng lần này không chỉ hướng tới tăng năng suất và lao động trực tiếp, khi lượng thông tin trao đổi sẽ tăng lên gấp hàng trăm tới hàng nghìn lần, đồng thời nảy sinh ra 3 sự thay đổi lớn. Cụ thể là:

Thứ nhất, thời đại sản xuất một sản phẩm với số lượng lớn sẽ dần kết thúc, thay vào đó là khả năng tiếp nhận nhu cầu của khách hàng và truyền tới công xưởng sản xuất ngay trong thời gian thực. Các dây chuyền sản xuất sẽ tự động kết hợp với nhau để sản xuất đơn chiếc mới mức giá thấp như hiện nay - gọi là thời đại sản xuất hàng loạt sản phẩm đơn chiếc theo nhu cầu của khách hàng, dẫn đầu lĩnh vực này là CHLB Đức.

Thứ hai, sự thay đổi trong khái niệm thay đổi thiết kế mới của sản phẩm như ô tô, xe máy. Hiện nay, giá trị gia tăng của ngành sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào việc gia công vật liệu như kim loại thành sản phẩm, đưa vào đó phần mềm hoặc hệ thống điều khiển. Trong tương lai, hệ thống kết nối internet sẽ thu thập nhu cầu của khách hàng. Trên cơ sở đó, nhà sản xuất sẽ chỉ cập nhật phần mềm để lên đời sản phẩm như những chiếc điện thoại thông minh hiện nay. Không những sản phẩm, các thiết bị sử dụng trong sản xuất cũng chỉ cần cập nhật phần mềm để thêm tính năng mới mà có khi không cần phải thay mới chi tiết hay bộ phận, dẫn đầu xu thế này đang là các công ty của Mỹ.

Thứ ba, thế giới sẽ chứng kiến một cuộc lật đổ ngoạn mục của các doanh nghiệp công nghệ thông tin, biến các doanh nghiệp sản xuất trở thành “tay sai” cho mình. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp sản xuất đang chủ động phát triển sản phẩm cho riêng mình, và các doanh nghiệp công nghệ thông tin chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Tuy nhiên, với khả năng thu thập và phân tích dữ liệu, các doanh nghiệp công nghệ thông tin sẽ nắm được nhu cầu của khách hàng và tự đưa ra được sản phẩm tương ứng, sau đó họ sẽ thuê doanh nghiệp sản xuất làm sản phẩm giúp mình. Nói ngắn gọn, thời đại của một “cuộc đảo chính” trong nền sản xuất đang tới gần.

Tác động đến lĩnh vực ngân hàng

Những tiến bộ về kỹ thuật công nghệ đang làm thay đổi cấu trúc, phương thức hoạt động và cung cấp nhiều dịch vụ hiện đại của hệ thống ngân hàng, hình thành những sản phẩm dịch vụ tài chính mới như M-POS, Internet banking, Mobile Banking, công nghệ thẻ chip, ví điện tử…; tạo thuận lợi cho người dân trong việc sử dụng dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiết kiệm được chi phí giao dịch.

Mạng máy tính đã kết nối các thị trường tài chính trên toàn cầu thành một thị trường thống nhất và hoạt động liên tục, khắc phục được trở ngại về không gian và thời gian, tiết giảm chi phí, tạo điều kiện cho các giao dịch ngân hàng quốc tế được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng. Nhờ đó, FIR đã đem lại cơ hội lớn cho các nhà kinh doanh tài chính, ngân hàng, đồng thời cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn, gây ra những rủi ro rất lớn nếu thiếu vắng một môi trường kinh doanh lành mạnh hoặc mắc sai lầm trong chính sách và cơ chế vận hành.

Về khoa học phân tích và quản lý dữ liệu trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng có nhiều thuận lợi, nhờ việc xây dựng được những trung tâm dữ liệu lớn (big data). Việc thu thập, phân tích và xử lý dữ liệu lớn sẽ tạo ra những tri thức mới, hỗ trợ việc đưa ra quyết định phù hợp và nhanh hơn, giảm được chi phí và tạo lợi thế cạnh tranh; nhất là tạo thuận lợi cho công tác dự báo, thống kê về hoạt động tiền tệ - ngân hàng.

Tuy nhiên, những tiến bộ về kỹ thuật công nghệ cũng gây ra nhiều khó khăn cho việc quản lý và giám sát hoạt động tiền tệ -ngân hàng. Do các sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, rủi ro kinh doanh phức tạp hơn, gây khó khăn cho nhiều quốc gia trong việc kiểm soát rủi ro dựa trên các phương pháp tryền thống, cơ chế giám sát ngân hàng ở mỗi nước không còn phù hợp. Do vậy, các ngân hàng trung ương cần phải tiếp tục đổi mới hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng.

Về thị trường lao động trong lĩnh vực ngân hàng cũng sẽ có sự thay đổi, do việc ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng này nên các ngân hàng giảm được số lượng nhân viên. Mặc dù vậy, nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ gia tăng (giỏi cả về chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng và công nghệ thông tin). Hơn nữa, việc cạnh tranh thông qua mở rộng mạng lưới các chi nhánh ngân hàng sẽ dần chấm dứt, do chi phí hoạt động cao, thay vào đó là công nghệ ngân hàng hiện đại. Điều này cũng tác động đến việc giảm số lượng nhân viên trong lĩnh vực ngân hàng.

Những kỳ vọng của khách hàng, năng lực công nghệ, yêu cầu điều chỉnh, nhân chủng học và khoa học kinh tế đang trở thành mệnh lệnh của sự thay đổi. Những thay đổi này sẽ định hình lại ngành Ngân hàng, các ngân hàng cần vượt qua những thách thức này và tái trang bị để có thể thành công trong những thập kỷ tới đây. Trong tương lai, kinh doanh ngân hàng không chỉ đơn thuần là tiếp tục những gì đã và đang làm, ngân hàng có thể thất bại nếu thiếu chiến lược và mô hình kinh doanh rõ ràng để tiến hành việc đổi mới, tiếp tục duy trì vai trò trung tâm trong việc phân bổ dịch vụ ngân hàng.

Theo báo cáo nghiên cứu đưa ra vào tháng 2/2016 của PwC, những thay đổi nhanh chóng hiện nay mà các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ tài chính phải đối mặt có thể sẽ mãnh liệt hơn. Tuy nhiên, việc cạnh tranh này sẽ tạo động lực đổi mới và phát triển.

Đến năm 2020-2025, kinh tế thị trường sẽ tồn tại mà không cần những ngân hàng truyền thống hiện nay (kinh doanh chủ yếu dựa vào hoạt động huy động vốn và cho vay), quy mô của khu vực ngân hàng cũng sẽ thu hẹp đáng kể. Tuy nhiên, do kinh doanh ngân hàng mang tính đặc thù, dựa trên niềm tin của công chúng nên uy tín và thương hiệu vẫn là tài sản vững mạnh của các ngân hàng trên thế giới. Do đó, các doanh nghiệp về công nghệ thông tin sẽ tăng cường việc hợp tác với các ngân hàng để tận dụng lợi thế cạnh tranh.

Trong ngữ cảnh như vậy, các ngân hàng ngày nay phải nhấn mạnh bốn lĩnh vực cần nhanh chóng triển khai thực hiện. Bao gồm: (i) Các ngân hàng phải tiếp tục thích ứng với những thay đổi; (ii) Thay đổi văn hóa kinh doanh; (iii) Nghiên cứu xây dựng thương hiệu và nâng cao uy tín (iv) Chứng minh trước xã hội là xứng đáng tiếp tục được giao phó việc phát triển các dịch vụ ngân hàng.

Để có báo cáo này, PwC đã tổng hợp nhận định của 560 CEO (lãnh đạo) các tổ chức tài chính từ 17 thị trường về những thách thức và cơ hội liên quan đến bức tranh tiến hóa này cũng như phương pháp lập kế hoạch đối phó. Theo đó, có 70% CEO tin rằng, cần xây dựng tầm nhìn về thị trường ngân hàng năm 2020 để nắm bắt xu hướng toàn cầu tác động đến ngành này và xác định những vấn đề cần thiết để phát triển một chiến lược thành công.

Tuy nhiên, các CEO không chắc chắn, ai sẽ hưởng lợi chính trong xu hướng này. Trên một nửa (54%) tin rằng, các ngân hàng lớn sẽ chiến thắng, trong khi 46% CEO cho rằng, các ngân hàng nhỏ sẽ chiến thắng nhờ tăng cường sự khác biệt. Liên quan đến những thách thức bắt nguồn từ sự xuất hiện của những đối thủ phi truyền thống mới, 55% CEO cho rằng, những ngân hàng truyền thống sẽ bị đe dọa, trong khi 31% CEO cho rằng, họ sẽ đưa ra những cơ hội về đối tác đổi mới.

Tại báo cáo này, PwC cũng đưa ra một vài xu hướng vĩ mô sẽ tác động đến tương lai của các ngân hàng bán lẻ.

Công nghệ sẽ thay đổi tất cả - trở thành tiềm năng hỗ trợ, thúc đẩy dịch vụ và giảm chi phí. Đổi mới là mệnh lệnh. Gần đây, công nghệ phát triển rất nhanh - cơ sở dữ liệu lớn, điện toán đám mây, điện thoại thông minh dải băng thông rộng đều là bình thường. Tốc độ đổi mới sẽ tiếp tục gia tăng. Theo đó, các định chế tài chính buộc phải đổi mới nếu muốn tiếp tục phát triển và tồn tại.

Mỗi ngân hàng sẽ trở thành ngân hàng trực tiếp, và hoạt động của các chi nhánh phải thay đổi. Khi công nghệ ngày càng tác động trực tiếp đến mọi hoạt động và nhu cầu sử dụng tiền mặt (tiền giấy và tiền xu) sẽ giảm mạnh, thay vào đó là tiền điện tử; vai trò và chức năng của các chi nhánh ngân hàng sẽ sớm chấm dứt. Vì thế, các ngân hàng cần tăng năng suất lao động hoặc cắt giảm hàng loạt chi phí khác như thu hẹp hoạt động, đóng cửa một số chi nhánh, đồng thời xây dựng những phương án bán lẻ mới. Tuy nhiên, theo PwC dự báo, các chi nhánh vẫn thích hợp, nhưng phải chấp nhận nhiều hình thức thay đổi khác nhau - từ “trung tâm giao dịch” dẫn đầu đến “kios thông minh” gọn nhẹ.

Các ngân hàng sẽ tự tổ chức xung quanh khách hàng thay vì các sản phẩm và kênh dịch vụ. PwC cho rằng, người chiến thắng trong ngày mai sẽ đưa ra khái niệm khách hàng không biên giới, kết nối người bán và dịch vụ qua tất cả các kênh. Các ngân hàng sẽ phát triển năng lực để nhìn nhận khách hàng và đáp ứng nhu cầu riêng của từng khách hàng.

Đến năm 2020, truyền thông xã hội sẽ là phương tiện thông tin chủ yếu mà các định chế tài chính kết nối, cam kết, thông báo và nắm bắt khách hàng - tất cả từ thông tin đại chúng và nắm bắt từng khách hàng cá nhân. Thông tin và những lựa chọn - cả thông tin tốt và xấu - sẽ được phóng đại. Trong bối cảnh đó, việc làm chủ được truyền thông xã hội sẽ là năng lực cốt lõi.

An ninh mạng là đỉnh cao để xây dựng lòng tin, và bên thắng cuộc sẽ đầu tư đáng kể vào lĩnh vực này. Những vụ vi phạm và tấn công mạng đang gia tăng, dẫn đến lo ngại về tình trạng bất ổn, tiếp tục xói mòn niềm tin của khách hàng. Thực tế cho thấy, tội phạm công nghệ cao có thể lấy cắp tài sản và thông tin của ngân hàng mà không cần phải đến ngân hàng, thậm chí cũng không cần kết nối về mặt vật lý. Do đó, các chính phủ và nhà cung cấp dịch vụ cần chủ động có biện pháp đối phó khả thi để đảm bảo an ninh mạng và thông tin của khách hàng.

Trước những thay đổi đang gây áp lực lên ngành Ngân hàng, các nhà quản lý cũng phải thay đổi tư duy và cách tiếp cận. Dù muốn hay không, các ngân hàng và các nhà tạo lập chính sách cần chấp nhận sự thay đổi tất yếu này, mở rộng tầm nhìn về triển vọng dịch vụ ngân hàng và nhanh chóng chuyển hóa thành hiện thực, như thế mới có thể tồn tại và phát triển bền vững.

Một số giải pháp đối với ngành Ngân hàng Việt Nam

Bước vào giai đoạn mới, hệ thống Ngân hàng Việt Nam vẫn được coi là huyết mạch của nền kinh tế, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc tổng thể của khu vực tài chính, đóng góp tích cực cho quá trình phát triển nhanh, bền vững gắn với việc đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế. Do đó, để ngành Ngân hàng đón nhận các cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư đem lại và hạn chế những tác động tiêu cực, cần thực hiện những giải pháp chủ yếu sau:

Một là, sớm xây dựng chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2030. Theo đó, phát triển NHNN trở thành NHTW hiện đại, có mô hình tổ chức hợp lý; cơ chế vận hành đồng bộ, hiệu lực và hiệu quả, phù hợp với cơ chế thị trường.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về hoạt động tiền tệ - ngân hàng phù hợp với các nguyên tắc thị trường và cam kết trong qua trình hội nhập quốc tế. Theo đó, NHNN cần thường xuyên rà soát các văn bản pháp luật, các quy định, hướng dẫn có liên quan đến hoạt động của NHTM để nắm bắt và chỉnh sửa kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM hiện đại hóa công nghệ ngân hàng.

Ba là, ưu tiên nguồn lực để phát triển những giải pháp công nghệ thông tin mới, tích hợp từ các nhà cung cấp: Cảm biến, hệ thống điều khiển, mạng truyền thông và các ứng dụng kinh doanh và chăm sóc khách hàng.

Bốn là, do FIR đã đẩy cao mức độ chia sẻ thông tin nên vấn đề an ninh mạng cần phải được chú trọng. Hệ thống giám sát ngân hàng sẽ không hiệu quả nếu vẫn duy trì phương pháp truyền thống. Do vậy, NHNN cần phải tiếp tục đổi mới hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Đối với các NHTM, cần phải đầu tư, trang bị các giải pháp về an ninh, bảo mật; thường xuyên kiểm tra nhân viên thực hiện việc tuân thủ các quy định về an ninh, bảo mật; phát hiện và xử lý kịp thời những lỗ hổng về bảo mật; nâng cao năng lực tài chính, quản trị ngân hàng, nhất là quản trị rủi ro.

Năm là, tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn cho các hệ thống thanh toán; phát hiện, đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thanh toán thẻ, ATM, POS và các phương thức thanh toán sử dụng công nghệ cao.

Sáu là, xây dựng cơ sở hạ tầng tài chính hiện đại, hội nhập khu vực và quốc tế đáp ứng yêu cầu phổ cập tài chính chất lượng cao cho nền kinh tế; phát triển dịch vụ ngân hàng đa dạng có hàm lượng tri thức và công nghệ cao; nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng của người dân.

Bảy là, tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ ngân hàng đủ năng lực, phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu quản lý và kinh doanh ngân hàng, góp phần nâng cao sức cạnh tranh, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ so với khu vực và thế giới.

Tám là, tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế nhằm thu hút các nguồn vốn và công nghệ cao phục vụ việc đổi mới và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng.

Tóm lại, FIR sẽ tác động sâu sắc đến các chính phủ, doanh nghiệp và người dân, đem đến cả về cơ hội cũng như thách thức. Do đó, để nắm bắt được cơ hội và hạn chế những tác động tiêu cực, các nhà hoạch định chính sách và quản lý trong lĩnh vực ngân hàng cần chủ động nghiên cứu, xây dựng chiến lược phát triển và kinh doanh phù hợp. Nếu không cơ hội sẽ qua đi, dường như chẳng bao giờ trở lại, chỉ còn lại những thách thức và khó khăn.

TS. Tô Huy Vũ

ThS. Vũ Xuân Thanh

Nguồn: Diễn đàn Kinh tế thế giới; PwC, The Financial Brand; Cyber security in the banking sector.

 

 

 

  • aA
  • Categories:
  • Fintech - Nghiên cứu trao đổi
  • Chuyên đề khác
OTHER NEWS
Triển vọng Fintech toàn cầu: Từ tăng trưởng nhanh sang tăng trưởng bền vững
3/7/26
Chuyển đổi số ở các ngân hàng thương mại Việt Nam: Thành tựu, thách thức và một số kiến nghị hoàn thiện
2/7/25
Fed đề xuất nới lỏng quy định vốn: Động thái hỗ trợ thị trường trái phiếu Kho bạc
2/6/27
Tăng cường ổn định tài chính nâng cao khả năng chống chịu trong bối cảnh kinh tế hiện nay
3/6/25
Lộ trình giảm lãi suất trong năm 2025 được mở ra từ Fed
2/6/25
ECB cảnh báo nguy cơ suy giảm niềm tin ngân hàng từ tài sản mã hóa
5/6/25
ECB điều chỉnh chính sách trong bối cảnh lạm phát hạ nhiệt
6/6/25
Thụy Sĩ: Chỉ số giá tiêu dùng vào vùng giảm phát, yếu tố thúc đẩy nới lỏng tiền tệ
5/6/25
Hạn hán - Thách thức mới cho ổn định tài chính Khu vực đồng Euro
2/6/25
Liệu ECB có cắt giảm lãi suất vào tháng 6/2025?
2/6/25
Showing 1 to 10 of 1573
  • 1
  • 2
  • 3
  • 158
About SBV
  • History
  • Major Responsibilities
  • Management Board
  • Former Governors
CPI
Reserve requirement
Interest Rate
Money Market Operations
  • Notification of New Offering off the State Bank Bills
  • Invitation for Gold Auctions
  • Open Market Operations
  • Auctions for State Treasury bills
System of Credit Institutions
  • Banks
    • Commercial Banks
      • State-owned Commercial Banks
      • Joibt-stock Commercial Banks
      • Wholly Foreign Owned Banks
      • Joint-venture Banks
    • Policy Banks
    • Cooperative Banks
  • Non-Banks Credit Institution
    • Finance Companies
    • Leasing Companies
    • Other non-bank credit Institutions
  • Micro finance Institutions
  • People's Credit Fund
  • Foreign Bank Branches
  • Representative Offices
Search Bar
TIN VIDEO
Dấu ấn ngành Ngân hàng trong Triển lãm thành tựu đất nước 80 năm hành trình Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Dấu ấn ngành Ngân hàng trong Triển lãm thành tựu đất nước 80 năm hành trình Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TIN ẢNH
Album
Album
TIN ẢNH
Album
Album
Calendar Icon LỊCH LÀM VIỆC CỦA BAN LÃNH ĐẠO Microphone Icon CÁC BÀI PHÁT BIỂU Chart Icon CPI Percentage Icon LÃI SUẤT Money Icon DỰ TRỮ BẮT BUỘC Graduation Icon GIÁO DỤC TÀI CHÍNH Newspaper Icon THÔNG CÁO BÁO CHÍ ẤN PHẨM PHÁT HÀNH
Ngân hàng
ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP NHIỆM KỲ 2025-2030 Chuyển đổi số
Danh Bạ Liên Hệ Phản Ánh Kiến Nghị Đường Dây Nóng
© state bank of vietnam portal
Address: 49 Ly Thai To - Hoan Kiem - Hanoi
Webmaster: (84 - 243) 266.9435
Email: thuongtrucweb@sbv.gov.vn rss
NCSC Certification
State Bank hotline: (84 - 243) 936.6306
Information security: phone number: (+84)84.859.5983, email: antt@sbv.gov.vn
IPv6 Ready
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Digital Bankingtimes

logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan
Cổng thông tin điện tử NHNN
Thời báo Ngân Hàng
Tạp chí Ngân hàng

Digital Bankingtimes

Digital Banking Times Logos