Skip to Main Content
Lỗi

State bank of vietnam portal

the state bank of viet nam

|
  • News
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Statistics
    • Balance of International Payment
    • Total Liquidity
      • Total Liquidity & Deposits with Credit Institutions
      • Cash in Total liquidity
    • Settlements
      • National Payment System Transactions
      • Domestic Transactions by Means of Payment
      • Trasactions via ATM.POS/EFTPOS/EDC
      • Number of Bank Cards
      • Deposits in Indivisudual Payment Accounts
      • List of Non-Bank Payment Service Suppliers
    • Credit to the Economy
    • Performance of Credit Institutions
      • Key Statistical RatiosKey Statistical Ratios
      • Ratio of loan outstanding over total deposits
      • Ratio of NPLs over Total Loan Outstanding
  • News
  • Press Release
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Statistics
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Legal Documents
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • About SBV
    • History
    • Major Responsibilities
    • Management Board
    • Former Governors
Trang chủ
  • News
  • Press Release
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Statistics
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Legal Documents
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • About SBV
    • History
    • Major Responsibilities
    • Management Board
    • Former Governors
  • Tạp chí Ngân hàng

Mô hình chính phủ kiến tạo trong phát triển nền kinh tế xanh tại Việt Nam (số 6)

04/04/2018 20:45:00
0:00
/
0:00
Giọng Nam
  • Giọng Nam
  • Giọng Nữ

Mô hình chính phủ kiến tạo trong phát triển nền kinh tế xanh tại Việt Nam

TS. Trần Thị Vân Anh1

 

Mô hình chính phủ kiến tạo phát triển là một mô hình đầy tiềm năng, phù hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế, xã hội, phù hợp với các giai đoạn phát triển của nhiều quốc gia. Bài viết phân tích ảnh hưởng của chính phủ kiến tạo trong bối cảnh Việt Nam chuyển dịch mô hình tăng trưởng sang hướng xây dựng và phát triển nền kinh tế xanh; đồng thời, đề xuất một số biện pháp hỗ trợ cụ thể trước mắt mà chính phủ có thể cân nhắc thực hiện để hỗ trợ quá trình xây dựng nền kinh tế xanh cho
Việt Nam.

 

1. Mô hình Chính phủ kiến tạo

Đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam được khẳng định trong các kỳ Đại hội Đảng cũng như trong Hiến pháp năm 2013 là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, trong đó đặc biệt chú trọng đến vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế Việt Nam có vai trò kiến tạo thị trường, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các bên tham gia thị trường, để thị trường hoạt đ63ộng hiệu quả, bằng việc tạo ra một hành lang pháp lý công bằng và có hiệu lực.

Thuật ngữ “nhà nước kiến tạo phát triển” được nhà nghiên cứu Chalmers Johnson (1982) đưa ra từ những năm 80 của thế kỷ trước khi nghiên cứu về nền kinh tế Nhật Bản và nhận thấy rằng trong sự phát triển thần kỳ ấy, có sự đóng góp quan trọng của nhà nước với vai trò không chỉ tạo ra khuôn khổ cho sự phát triển, mà còn định hướng và thúc đẩy sự phát triển đó.

Theo Chalmers Johnson, tồn tại ba mô hình, đó là chính phủ điều chỉnh (chính phủ của các nước theo mô hình thị trường tự do), chính phủ kế hoạch hóa tập trung (chính phủ của các nước phủ nhận vai trò của thị trường) và chính phủ kiến tạo phát triển (chính phủ của các nước coi trọng vai trò của thị trường, nhưng không tuyệt đối hóa vai trò này, mà tích cực can thiệp để định hướng thị trường). Chính phủ kiến tạo được Chalmers Johnson định nghĩa cụ thể là “một mô hình quản lý, trong đó, nhà nước đề ra các chính sách mang tính định hướng phát triển, tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế; tăng cường giám sát để phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô”.

Tiếp theo Nhật Bản thì Hàn Quốc, Trung Quốc và nhiều nước đang phát triển khác đều được xem là những chính phủ kiến tạo phát triển. Mô hình chính phủ kiến tạo phát triển mạnh mẽ nhất trong những thập niên nửa cuối của thế kỷ trước. Với những đặc điểm nằm ở giữa mô hình chính phủ điều chỉnh (theo chủ thuyết thị trường tự do) và chính phủ kế hoạch hóa tập trung (theo mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống), mô hình chính phủ kiến tạo phát triển không đứng ngoài thị trường, nhưng cũng không làm thay thị trường, mà kiến tạo phát triển, chủ động can thiệp mạnh mẽ vào thị trường để thúc đẩy phát triển và hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đã được đề ra. Ví dụ như để đạt được mức tăng trưởng GDP gấp đôi, một chính phủ điều chỉnh như Hoa Kỳ sẽ phải mất đến 50 năm, trong lúc đó, một chính phủ kiến tạo phát triển như Trung Quốc chỉ mất 10 năm.

Mặc dù thời gian gần đây bắt đầu có cái nhìn phê phán hơn đối với mô hình chính phủ kiến tạo phát triển do mô hình này bộc lộ không ít những hạn chế. Ví dụ như sự hoạch định kế hoạch phát triển công nghiệp của chính phủ có thể dẫn đến hiện tượng dư thừa năng lực sản xuất quá lớn như ở Trung Quốc hay trong thời đại toàn cầu hóa, khi các tập đoàn xuyên quốc gia đang làm chủ việc hoạch định chính sách phát triển nhiều ngành công nghiệp thì chính phủ không dễ đi ngược lại với các tập đoàn này. Tuy nhiên, mô hình chính phủ kiến tạo phát triển vẫn tiếp tục được nghiên cứu bổ sung, phát triển trên cơ sở những phân tích, tổng kết kinh nghiệm triển khai tại nhiều quốc gia. Có thể nói, mô hình chính phủ kiến tạo vẫn được coi là một mô hình đầy tiềm năng, phù hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế, xã hội, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia.

Tại Việt Nam, trong cam kết tại lễ tuyên thệ nhậm chức của mình, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu “Với cương vị là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, tôi sẽ cùng tập thể Chính phủ kế thừa và phát huy những thành tựu của 30 năm đổi mới; tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi; khắc phục hạn chế, yếu kém; vượt qua khó khăn thách thức; nỗ lực xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ Nhân dân…”. Có thể nói, từ khi Chính phủ mới ra mắt vào năm 2016 thì cụm từ kiến tạo được coi là phương châm hành động và qua thực tiễn hoạt động của Chính phủ thì vai trò kiến tạo đã được định hình. Bản chất của Chính phủ kiến tạo theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là nhằm xây dựng một nền kinh tế thị trường lành mạnh, khuyến khích người dân, doanh nghiệp làm giàu hợp pháp.

Nội hàm khái niệm “Chính phủ kiến tạo” được thảo luận nhiều trong thời gian vừa qua. Cụ thể như tại tọa đàm “Kinh tế 2017 và sinh khí mới từ Chính phủ kiến tạo” do Thời báo Kinh tế Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu phát triển Việt Nam (Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam) tổ chức ngày 14/1/2017, các chuyên gia cũng đưa ra nhiều định nghĩa cho khái niệm “Chính phủ kiến tạo”.

Theo quan điểm của GS. Nguyễn Quang Thái, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Việt Nam thì Chính phủ kiến tạo không chỉ cải thiện môi trường đầu tư, mà cần cải cách thể chế, đổi mới tư duy phát triển, quyết tâm vượt khó, đưa dân tộc vượt qua thách thức.

TS. Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, phân tích 4 đặc điểm quan trọng nhất của Chính phủ kiến tạo. Thứ nhất, Chính phủ kiến tạo phải đủ năng lực, đủ minh bạch, đủ khả năng giải trình. Thứ hai, Chính phủ có đủ khả năng tạo ra tầm nhìn tốt và chính sách tốt. Thứ ba, một Chính phủ tương tác, thân thiện với xã hội, người dân, với thị trường và doanh nghiệp với sự minh bạch và trách nhiệm giải trình. Cuối cùng, Chính phủ kiến tạo là biết tạo ra và chia sẻ sự phát triển.

Tại Hội nghị quốc tế Quản trị kinh tế hướng tới một nhà nước kiến tạo do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Ngân hàng Thế giới tổ chức vào ngày 13/06/2017 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thế Phương nhấn mạnh, trong quá trình xây dựng một Chính phủ kiến tạo, cần phân công rõ ràng chức năng và nhiệm vụ giữa các bộ phận, xây dựng Chính phủ có năng lực và trách nhiệm giải trình vừa là nhiệm vụ vừa là mục tiêu để vượt qua thách thức. Tuy nhiên, Chính phủ kiến tạo cần tránh can thiệp sâu vào nền kinh tế. Đặc biệt với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, chính phủ điện tử ngày càng được xem là công cụ hữu hiệu để các chính sách của nhà nước hiệu quả hơn, trong đó, có việc cung cấp các dịch vụ công đến doanh nghiệp và người dân. Do đó, tận dụng các cơ hội của cuộc cách mạng thông tin và truyền thông mang lại sẽ đòi hỏi Chính phủ phải đổi mới bộ máy tổ chức, trách nhiệm, các quy trình, sự phối kết hợp giữa các cấp
chính quyền.

Theo ý kiến của Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, TS. Nguyễn Đình Cung thì để xây dựng Chính phủ kiến tạo, cần đảm bảo hai điều kiện. Thứ nhất, Chính phủ cần dẫn dắt, lôi kéo quá trình phát triển. Thứ hai, Chính phủ cần phải có một đội ngũ, nhà lãnh đạo thực sự có năng lực để luôn luôn theo đuổi mục tiêu đã đề ra. Ngoài ra, Chính phủ kiến tạo cần có trách nhiệm giải trình để người dân được quyền giám sát chặt chẽ.

Như vậy, trên cơ sở phân tích các định nghĩa khác nhau nhưng tựu trung lại, có thể định nghĩa Chính phủ kiến tạo là “Chính phủ tập trung xây dựng những chính sách kinh tế - xã hội để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, kinh doanh hiệu quả, sáng tạo, đổi mới công nghệ. Các cơ chế, chính sách của Chính phủ tạo ra một khuôn khổ pháp lý để giảm sự bất công bằng trong thu nhập, từ đó, kích thích mọi công dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế - xã hội cùng tham gia khởi nghiệp, làm giàu chính đáng và đóng góp cho sự thịnh vượng chung của quốc gia”. Câu hỏi đặt ra là mô hình chính phủ kiến tạo hiện nay chúng ta đang xây dựng có thể ảnh hưởng như thế nào tới xu hướng xanh hóa nền kinh tế Việt Nam hiện nay.

 

2. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế xanh

a) Khái niệm kinh tế xanh   

Hiện nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về “kinh tế xanh”. Tuy nhiên, theo định nghĩa mà UNEP đưa ra thì có thể hiểu “kinh tế xanh” hay “kinh tế sạch” là nền kinh tế mà chính sách phát triển có định hướng thị trường sử dụng nền tảng là các nền kinh tế truyền thống với mục tiêu là sự hòa hợp giữa kinh tế và môi trường sinh thái. Chiến lược tăng trưởng cơ bản của nền “kinh tế xanh” là bảo vệ môi trường, phát triển công nghệ sản xuất sạch và năng lượng sạch, nhanh chóng đạt được mức tăng trưởng bền vững hay nói cách khác là tăng trưởng xanh.

Bản thân khái niệm tăng trưởng xanh cũng có nhiều cách định nghĩa tùy theo từng quốc gia ví dụ như:

- Theo Ủy ban Kinh tế xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Liên hiệp quốc (UNESCAP, 2010) thì tăng trưởng xanh là chiến lược tìm kiếm sự tối đa hóa trong sản lượng kinh tế và tối thiểu hóa gánh nặng sinh thái.

- Theo định nghĩa của Bộ Tư pháp Hàn Quốc (2010) thì tăng trưởng xanh cần phải đảm bảo tỷ lệ tăng trưởng với một tỷ lệ sử dụng năng lượng và tài nguyên thiên nhiên một cách có hiệu quả, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và thiệt hại cho môi trường, duy trì động lực tăng trưởng thông qua nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.

- Theo một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu môi trường thuộc Trường đại học tổng hợp Kyoto (Nhật Bản, 2010) thì tăng trưởng xanh đồng nghĩa với việc xây dựng một xã hội carbon thấp, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ và hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Để có được một xã hội carbon thấp cần thiết phải giảm thiểu khí CO2 trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, tăng cường bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên, gia tăng chất lượng cuộc sống của người dân.

- Chiến lược tăng trưởng xanh theo quan điểm của Chính phủ Việt Nam (2014) là chiến lược thúc đẩy quá trình tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, thông qua tăng cường đổi mới công nghệ, vốn tự nhiên, công cụ kinh tế. Từ đó, chiến lược tăng trưởng xanh sẽ góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm nghèo và đảm bảo phát triển kinh tế bền vững.

Chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam tập trung vào 3 mục tiêu chủ yếu là (1) Tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa các ngành hiện có và khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên với giá trị gia tăng cao; (2) Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu; (3) Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường thông qua tạo việc làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ xanh.

Như vậy, tăng trưởng xanh đồng nghĩa với tăng trưởng bền vững hay có thể hiểu là sự phát triển có thể đáp ứng về mọi mặt những nhu cầu trong hiện tại, mà không ảnh hưởng, tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Đây là nhiệm vụ hướng tới của nhiều quốc gia và mỗi quốc gia căn cứ vào đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa của mình để xây dựng những chiến lược phù hợp để thực hiện mục tiêu này.

b) Chuyển đổi mô hình kinh tế xanh

Ý tưởng phát triển mô hình kinh tế xanh/tăng trưởng xanh xuất hiện từ những năm 1970 do áp lực của cuộc khủng hoảng năng lượng 1972 - 1973. Vào cuối năm 2008, UNEP đã phát động “Sáng kiến kinh tế xanh” với mục tiêu tăng cường phối hợp và hợp tác quốc tế ứng phó với khủng hoảng tài chính đi đôi với xử lý các vấn đề toàn cầu nhằm hướng tới phát triển bền vững của kinh tế thế giới hậu khủng hoảng. Các nước OECD cũng bắt đầu đưa ra chiến lược tăng trưởng xanh vào năm 2009 và đã công bố Báo cáo đầu tiên về Chiến lược tăng trưởng xanh tại Hội nghị Bộ trưởng các nước OECD vào tháng 5/2010.

Theo quan điểm của các tổ chức quốc tế như UNEP, UNESCAP, OECD, để chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, các quốc gia cần phải thực hiện một số biện pháp cơ bản sau đây: (1) đầu tư thận trọng vào vốn tài nguyên; (2) tạo việc làm và đảm bảo công bằng xã hội; (3) thay thế năng lượng hóa thạch bằng năng lượng tái tạo và công nghệ ít các-bon; (4) khuyến khích sử dụng nguồn lực và năng lượng hiệu quả hơn; (5) phát triển đô thị bền vững và giao thông ít các-bon; (6) thiết lập cơ chế tài chính, tài khóa cũng như xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách hỗ trợ phù hợp cho các hoạt động nói trên.

Như vậy, mô hình kinh tế xanh hay mô hình tăng trưởng xanh là mô hình phát triển không những nâng cao chất lượng của tăng trưởng, thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng theo hướng bền vững và cải thiện đời sống nhân dân, mà còn giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Nền kinh tế xanh là nền kinh tế sử dụng tài nguyên có hiệu quả cao, có mức phát thải thấp và hướng tới công bằng xã hội.

Xanh hóa nền kinh tế không làm trở ngại tới tăng trưởng, trái lại đó là động lực tăng trưởng mới, tạo thêm việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo. Mô hình Kinh tế xanh được chứng minh là có hiệu quả về mặt dài hạn hơn hẳn nền kinh tế nâu truyền thống1. Theo báo cáo nghiên cứu của UNEP (2013), với các biện pháp đầu tư xanh và sử dụng số vốn khoảng 2% GDP toàn cầu (tương đương 1.300 tỷ USD) hàng năm thì trong dài hạn, sẽ cải thiện hiệu quả kinh tế và tăng tổng lượng của cải trên toàn cầu trên cơ sở duy trì và phục hồi được các nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn.

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trên đà phục hồi sau khủng hoảng nợ công châu Âu thì theo nhận định của UNEP, chiến lược “kinh tế xanh” đã trở thành bước ngoặt phát triển cho tiến trình khôi phục kinh tế toàn cầu và cũng là động lực mới cho việc thúc đẩy kinh tế toàn cầu phát triển bền vững. UNEP nhận định, chính sách “kinh tế sạch” còn là con đường phát triển cần thiết cho kinh tế toàn cầu cho tương lai.

 

3. Tác động của mô hình Chính phủ kiến tạo đối với phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam

Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam thời gian qua dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu thô và sơ chế gây thiệt hại cho môi trường và gia tăng tác động của biến đổi khí hậu. Theo dự đoán của cơ quan Thông tin Năng lượng, mức phát thải khí CO2 tương đương từ năng lượng sẽ tăng từ hơn 113 triệu tấn trong năm 2010 lên tới gần 471 triệu tấn vào năm 2030. Nếu không tăng cường công tác bảo vệ môi trường thì trong 10 năm tới, nếu GDP tăng gấp 2 thì mức độ ô nhiễm tăng gấp 3 lần và đến năm 2050 thì có thể tăng từ 4 - 5 lần.

Theo báo cáo của UNEP (2013) thì Việt Nam có mức độ sử dụng nguyên liệu thô trong nước (than, dầu, thép) để sản xuất ra một đơn vị GDP vào loại cao nhất thế giới. Trong khi thế giới ngày càng ít sử dụng nguyên liệu thô để tạo ra một đơn vị GDP thì Việt Nam lại gia tăng tỷ lệ này. Nếu như năm 1990, Việt Nam sử dụng khoảng hơn 8 kg nguyên liệu thô để tạo ra 01 USD GDP thì con số này đến năm 2008 là khoảng 13 kg, trong khi con số tương ứng để tạo ra 01 USD GDP trung bình của thế giới năm 1990 là 1,8kg; tới năm 2008, chỉ còn khoảng 1,5 kg.

Mô hình tăng trưởng hiện nay của chúng ta rõ ràng là không bền vững. Bởi vậy, trong chiến lược phát triển giai đoạn 2011 - 2020, Việt Nam đã xác định yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược là phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, trong đó, đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển dịch từ nền kinh tế nâu sang nền kinh tế xanh là một trong những nhiệm vụ trọng tâm khi ngày 1/11/2016, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế với các mục tiêu cụ thể đến năm 2020.

Thêm vào đó, Chính phủ nhiệm kì mới với quyết tâm điều hành nền kinh tế theo chức năng của Nhà nước “kiến tạo phát triển” cùng với những hành động cụ thể trong thời gian qua đã tạo nên những hiệu ứng tích cực đối với hoạt động sản xuất của nền kinh tế góp phần nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia trong xếp hạng cạnh tranh toàn cầu. Đặc biệt, Chính phủ cho thấy vai trò quan trọng của mình trong dẫn dắt nền kinh tế Việt Nam đạt được những mục tiêu của nền kinh tế xanh đã được nêu rõ trong Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020 mà Chính phủ đã ban hành theo Quyết định số 403/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ vào ngày 20 tháng 3 năm 2014. Có thể nói, mô hình Chính phủ kiến tạo là một giải pháp phù hợp cho quá trình xây dựng nền kinh tế xanh cho Việt Nam hiện nay thể hiện ở những khía cạnh cụ thể sau đây:

- Xây dựng chiến lược, tạo dựng thị trường và tạo điều kiện cho phát triển kinh tế xanh

Với đặc điểm của Chính phủ kiến tạo là bộ máy phục vụ phát triển với chức năng chủ yếu là xây dựng chiến lược phát triển cụ thể là Chính phủ cần chú trọng công tác lập kế hoạch để thực hiện chiến lược với quy trình từ phân tích tình hình, xác định vấn đề then chốt và nhiệm vụ cơ bản, dự đoán tương lai và thời gian thực hiện chiến lược, triển khai thực hiện mục tiêu và đánh giá kết quả.

Cụ thể Chính phủ cần kiên trì thực hiện chiến lược phát triển kinh tế theo hướng kinh tế xanh đảm bảo thực hiện các mục tiêu của một nền kinh tế xanh, đảm bảo luôn có sự gắn kết giữa chiến lược phát triển xanh với chiến lược phát triển chung của Chính phủ. Do đó, Chính phủ cần xem xét điều chỉnh hệ thống luật pháp hiện hành và xây dựng các quy định mới cho phù hợp với thông lệ quốc tế theo xu hướng phát triển kinh tế xanh. Mặt khác, do nền kinh tế xanh có nhiều đặc điểm khác biệt so với nền kinh tế nâu phổ biến hiện nay nên Chính phủ cũng đồng thời cần nâng cao năng lực cho các cơ quan nhà nước hỗ trợ hoạt động quản lý nền kinh tế xanh.

Chính phủ thực hiện tạo dựng thị trường, để thị trường hoạt động hiệu quả bằng việc tạo ra hành lang pháp lý công bằng và có hiệu lực. Cụ thể là Chính phủ xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, tạo khung pháp lý cho các quan hệ kinh tế và xã hội, cho phép các chủ thể khác nhau trong phạm vi quyền hạn của mình sẵn sàng tạo lập một môi trường khuyến khích hoặc có khả năng cung cấp sản phẩm và dịch vụ tài chính cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi chuyển đổi từ nền kinh tế nâu truyền thống sang nền kinh tế xanh.

Chính phủ kiến tạo luôn quan tâm tạo điều kiện cho các thành phần, khu vực kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế, kiểm soát chặt chẽ và xóa bỏ những cơ chế chính sách dẫn đến bất bình đẳng trong cạnh tranh. Cụ thể như Chính phủ hỗ trợ phát triển kinh tế xanh bằng cách thiết lập và khuyến khích thị trường trong nước sử dụng các nguồn lực và công nghệ tái tạo, sẽ tạo thành bước đệm giảm xóc cho toàn xã hội trước viễn cảnh nguồn lực tự nhiên trở nên khan hiếm. Chính phủ có thể tăng cường các triển vọng kinh tế thông qua việc tìm kiếm những thị trường mới có tiềm năng tạo ra nhiều việc làm trong các hoạt động xanh. Do nhiệm vụ chính của Chính phủ là tối đa hóa phúc lợi cho nhiều thế hệ, bởi vậy, xây dựng nền kinh tế xanh có ý nghĩa quan trọng vì thể hiện cam kết của Chính phủ trong hỗ trợ các dự án và sáng kiến phát triển xanh, đem lại những lợi ích bền vững đặc biệt trong trung và dài hạn.

Mặt khác, khi tạo điều kiện để khuyến khích chuyển đổi hoạt động nền kinh tế theo hướng xanh hóa sẽ góp phần tạo nên ưu thế cạnh tranh trước viễn cảnh các tiêu chuẩn môi trường sẽ càng trở nên nghiêm ngặt hơn và tăng trưởng xanh ít carbon không tránh khỏi sẽ là một chiến lược phát triển bắt buộc đối với nhiều quốc gia trước áp lực ngày càng gia tăng do biến đổi khí hậu và các cuộc khủng hoàng kinh tế và môi trường diễn ra ngày càng thường xuyên. Về phía các doanh nghiệp và tổ chức thì có thể gia tăng giá trị tài sản của mình và gia tăng lợi thế cạnh tranh bằng cách tăng cường hay công bố cam kết tham gia các hoạt động “xanh” sẽ hỗ trợ thu hút được nhiều nhà đầu tư và khách hàng có ý thức về môi trường.

- Dự báo, chia sẻ và hướng dẫn trong phát triển kinh tế xanh

Chính phủ kiến tạo có khả năng dự báo thể hiện trong quá trình hoạch định chính sách cần thực hiện với tầm nhìn hệ thống để có thể phát hiện các khả năng có thể điều hòa, cân đối những yêu cầu khác nhau về nguồn lực. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nguồn lực ngày càng hạn hẹp nên Chính phủ cần tập trung nguồn lực cho các ưu tiên phát triển xã hội có hiệu quả, sử dụng các nguồn lực cho những ngành, lĩnh vực phát triển quan trọng nhất trong từng giai đoạn, những lĩnh vực có tầm quan trọng chiến lược.

Chính phủ kiến tạo có trách nhiệm chia sẻ và hướng dẫn thông qua việc đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, tận dụng mọi cơ hội cho phát triển. Sự chia sẻ và hướng dẫn này có ý nghĩa quan trọng do sự thiếu hiểu biết chung của doanh nghiệp về các sản phẩm và dịch vụ cũng như sự khác biệt trong hoạt động của mô hình kinh tế xanh so với mô hình kinh tế nâu truyền thống. Do đó, Chính phủ cần xây dựng những chính sách ưu đãi, nhất là ưu đãi về thuế, phí, cho vay tài chính phù hợp cho khu vực doanh nghiệp nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng công nghệ xanh, việc làm xanh để tạo ra thế mạnh trong cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Điều này là cần thiết vì các chi phí xây dựng, xử lý hệ thống giảm thiểu ô nhiễm môi trường hoặc để sản xuất sạch thường khá lớn, gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp muốn triển khai những hệ thống này, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn chiếm đa số trong nền kinh tế Việt Nam. Mặt khác, các ưu đãi về thuế hiện nay chưa đủ mạnh để khuyến khích doanh nghiệp giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Tuy nhiên, cũng xuất phát từ việc chia sẻ và hướng dẫn, Chính phủ sẽ hiểu rõ những hoạt động của doanh nghiệp và những tác hại mà hoạt động đó có thể ảnh hưởng tới môi trường. Vì vậy, Chính phủ có thể quy định những chế tài xử phạt thỏa đáng đối với những hành vi vi phạm quy định bảo vệ môi trường. Hiện nay, một số doanh nghiệp có xu hướng chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà cố tình bỏ qua những tác hại đối với môi trường, trong khi đó, chưa có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn những hành vi bất lợi cho môi trường.

Trong trường hợp Việt Nam, để bổ sung ngân sách nhà nước cho tăng trưởng bền vững, cần đánh giá, rà soát lại, từ đó có những bổ sung phù hợp các cơ chế chính sách, hệ thống luật pháp, đặc biệt những quy định liên quan đến bảo vệ môi trường nhằm tăng nguồn thu hiện hành. Hiện nay, chúng ta đã có Thuế bảo vệ môi trường, Thuế tài nguyên, Nghị định thu phí nước thải, Nghị định chi trả dịch vụ môi trường, Nghị định bồi hoàn thiệt hại môi trường... Tuy nhiên, những văn bản này còn có nhiều bất cập và chồng chéo, nhất là Luật Thuế bảo vệ môi trường và Thuế tài nguyên. So với các nước khác, thuế suất tài nguyên của nước ta còn thấp, nhất là đối với các kim loại quý hiếm, nên cần phải điều chỉnh tăng. Mức tính thuế và phí môi trường còn chưa phù hợp.

Khi điều chỉnh hoặc ban hành các quy định thuế/phí Bảo vệ môi trường, chúng ta cần cân nhắc và lưu ý một số vấn đề như (i) Quy mô đánh thuế phải rộng, bao hàm một cách toàn diện quy mô thiệt hại về môi trường, phải nhằm vào mọi chất ô nhiễm/hành động gây ô nhiễm và không nên có hoặc chỉ hạn chế rất ít trường hợp được miễn trừ; (ii) Mức thuế suất phải được xây dựng trên một cơ sở toàn diện và đáng tin cậy, trong đó, mức thuế suất ít nhất phải bằng chi phí biên để xử lý ô nhiễm; (iii) Số thu về thuế môi trường phải hỗ trợ giảm bớt số thu từ các loại thuế khác; (iv) Cần phải cân nhắc tác động của thuế với những chính sách khác và cần phải kết hợp với những công cụ chính sách khác.

Một khía cạnh khác của nhiệm vụ chia sẻ và hướng dẫn của Chính phủ thể hiện trong việc thực hiện các biện pháp nhằm hỗ trợ nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của người tiêu dùng thông qua việc thay đổi thói quen tiêu dùng. Mô hình kinh tế xanh có thể hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bằng cách đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng đối với các hàng hóa và sản phẩm “xanh” khi sở thích của người tiêu dùng thay đổi khi ý thức bảo vệ môi trường được tăng cường.

Người tiêu dùng đóng vai trò quan trọng đối với sự cân bằng cung - cầu trên thị trường. Sở thích của người tiêu dùng ảnh hưởng tới giá hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. Đối với đại đa số người tiêu dùng ở các nước phát triển thì giá và đặc tính của hàng hóa và dịch vụ không phải là yếu tố duy nhất mà họ cân nhắc trong các quyết định mua sắm và sử dụng hàng hóa và dịch vụ. Thay vào đó, họ xem xét tới yếu tố đạo đức và trách nhiệm xã hội của hàng hóa và dịch vụ như cách thức sản xuất hàng hóa và dịch vụ, sự an toàn của môi trường sản xuất, tỷ lệ sử dụng lao động trẻ em hoặc các vấn đề bất hợp pháp hay đáng ngờ khác. Nếu như tồn tại những vấn đề như vậy thì người sử dụng sẽ không mua hay sử dụng mặc dù các hàng hóa và dịch vụ đó có mức giá thấp.

Những biện pháp của Chính phủ như xây dựng một mạng lưới trách nhiệm xã hội, quy định yêu cầu các công ty thông báo những hoạt động gây tác động xấu tới môi trường của mình, triển khai các chương trình đào tạo về tiêu dùng xanh... sẽ hỗ trợ gia tăng nhận thức và trách nhiệm của người tiêu dùng ý thức bảo vệ môi trường. Người tiêu dùng sẽ gia tăng nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ “xanh”, làm thị trường đạt tới điểm cân bằng mới làm tăng giá hàng hóa và dịch vụ “xanh”. Chính phủ sẽ cung cấp trợ giá cho các hàng hóa và dịch vụ này và điều này góp phần khuyến khích doanh nghiệp cung cấp và sản xuất các dịch vụ và hàng
hóa “xanh”.

- Đảm bảo tinh thần doanh nghiệp trong hoạt động

Chính phủ kiến tạo mang tinh thần doanh nghiệp trong hoạt động quản lý của mình. Theo đó, Chính phủ xác định khách hàng thật sự của mình là người dân và doanh nghiệp, do đó, đối tượng phục vụ của cán bộ, công chức nhà nước là người dân và doanh nghiệp. Một trong những nhiệm vụ đặt ra là Chính phủ cần phải gia tăng mức độ cạnh tranh quốc gia cụ thể như gia tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Thực tế cho thấy việc thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào các dự án xanh gặp nhiều cản trở do mức độ hấp dẫn của những dự án đó đối với các nhà đầu tư tư nhân trong nước và quốc tế chưa cao. Nguyên nhân một phần là trong khi các nhà đầu tư cá nhân chủ yếu hướng tới tối đa hóa lợi nhuận thì các nguồn tài trợ của nhà nước có mục đích chính là cải thiện môi trường để hướng tới phát triển bền vững. Do vậy, Chính phủ cần phải giải quyết mâu thuẫn trong mục tiêu này thông qua việc triển khai các sáng kiến để gia tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư xanh tại Việt Nam trong bối cảnh các nhà đầu tư quốc tế có nhiều quốc gia khác để lựa chọn đầu tư. Một vấn đề khác là môi trường chính sách và đầu tư chung còn chưa hiệu quả, gây khó khăn trong đánh giá rủi ro liên quan đến tăng trưởng xanh. Việc chưa có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và quy định phù hợp cũng là cản trở cho việc đo lường, đánh giá và phân tích các chiến lược và phương thức tài trợ cho các khoản đầu tư xanh. Như vậy, những rủi ro đối với đầu tư xanh bao gồm cả vấn đề những công nghệ hay tiến trình mới không được hiểu rõ cũng như vấn đề liên quan đến hình thức, độ ổn định và rõ ràng của các chính sách trong nước.

- Bộ máy tinh gọn, minh bạch và hiệu lực, hiệu quả

Chính phủ kiến tạo với đặc trưng là có bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, với đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực và tính chuyên nghiệp cao. Với mô hình Chính phủ như vậy sẽ thuận lợi cho việc rà soát và loại bỏ những đạo luật và những thủ tục hành chính cản trở hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp xanh, qua đó, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ thân thiện với môi trường như các năng lượng sạch để có thể giảm bớt chi phí giải quyết những hậu quả do tác động của công nghệ thông thường gây ra đối với môi trường, tránh được mô hình “tăng trưởng trước, dọn dẹp hậu quả sau” mà nhiều nước đã trải qua do một phần lớn trong đầu tư xanh là để phát triển cơ sở hạ tầng. Điều này giúp cho chúng ta có thể xây dựng ngay một cơ sở hạ tầng thân thiện với môi trường góp phần gia tăng tính cạnh tranh quốc gia và hỗ trợ thu hút thêm vốn đầu tư từ khu vực tư nhân để phát triển nền kinh tế xanh bền vững.

Để thể hiện vai trò của Chính phủ kiến tạo trong việc xây dựng nền kinh tế xanh cho Việt Nam, trong giai đoạn trước mắt Chính phủ có thể cân nhắc triển khai một số biện pháp hỗ trợ cụ thể bao gồm:

- Hỗ trợ huy động nguồn tài chính xanh: Bản thân chính phủ cũng phải gia tăng nguồn vốn đóng góp của mình vào nguồn tài chính xanh để thể hiện cam kết của Chính phủ trong việc theo đuổi thực hiện các mục tiêu của kinh tế xanh. Điều này sẽ góp phần thu hút nguồn tài chính xanh từ khu vực tư nhân. Chính phủ cũng cần xây dựng một khung khổ chính sách đơn giản, ổn định và dễ phán đoán nhằm gia tăng mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư và kinh doanh cũng như mức độ cạnh tranh quốc gia. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút nguồn tài chính xanh từ các tổ chức quốc tế để xanh hóa nền kinh tế. Ngoài ra do các đối tượng tham gia tài trợ cho hệ thống tài chính xanh đều có các mục tiêu hay đặc điểm cụ thể khác nhau. Vì vậy, cần cân nhắc tới vấn đề này khi hoạch định các phương án phát triển nguồn tài chính xanh.

- Hỗ trợ thực hiện các hoạt động đầu tư xanh: Chính phủ cần thiết lập khung luật pháp tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư có thể thuận lợi cung cấp vốn cho các khu vực xanh của nền kinh tế. Đặc biệt Chính phủ cần cân nhắc đưa ra các biện pháp như chính sách thuế/phí môi trường, thuế/phí tài nguyên, các khoản hỗ trợ, miễn giảm, ưu đãi thuế/phí khuyến khích doanh nghiệp thực hiện các hoạt động đầu tư xanh. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước cần can thiệp và hỗ trợ nhằm khuyến khích dòng chảy tín dụng vào các hoạt động kinh doanh và tiêu dùng sản phẩm thân thiện với môi trường, ít tiêu hao tài nguyên thiên nhiên.

- Hỗ trợ xây dựng thị trường tài chính xanh: Vai trò dẫn dắt Chính phủ ở đây là xây dựng những chính sách, quy định luật pháp và thiết lập cơ sở hạ tầng phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc luân chuyển vốn vào các hoạt động đầu tư xanh. Chính phủ cần lập kế hoạch cụ thể để phát triển các thành phần hỗ trợ cho hoạt động của thị trường tài chính xanh

- Hỗ trợ xây dựng các trung gian tài chính xanh: Chính phủ thể hiện vai trò của mình trong việc xây dựng các trung gian tài chính xanh ở chỗ xây dựng những chính sách, các quy định luật pháp và thiết lập cơ sở hạ tầng phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các trung gian tài chính xanh.

Tóm lại, điều kiện đảm bảo để thành công cho sự phát triển nền kinh tế xanh tại Việt Nam là cần phải có sự hỗ trợ và định hướng của Chính phủ. Về mặt bản chất, những biện pháp và chi phí mà Chính phủ bỏ ra để phát triển nền kinh tế xanh là sự đầu tư cho tương lai hay cho phát triển bền vững. Đó là sự đầu tư khôn ngoan, nhưng phải kiên trì trong dài hạn và vai trò kiến tạo của chính phủ là không thể thiếu để tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự tham gia của cộng đồng xã hội nhằm đạt được một mục tiêu chung là xây dựng và phát triển nền kinh tế xanh cho Việt Nam.

 

1 Kinh tế nâu là nền kinh tế khai thác và sử dụng nhiều năng lượng từ nhiên liệu hoá thạch và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây tổn hại cho môi trường, suy giảm đa dạng sinh học, gây biến đổi khí hậu quy mô toàn cầu và đe dọa cuộc sống con người.

 

Tài liỆu tham khảo:

- Tiếng Việt

1. Acemoglu, D. và Robinson, JA. (2012). “Tại sao các quốc gia thất bại?“, Bản dịch của NXB Trẻ năm 2013;

2. Nguyễn Xuân Phúc, (2016), Chính phủ kiến tạo và hành động - động lực mới cho phát triển, Bài phát biểu tại Diễn đàn phát triển Việt Nam, VDF 2016 tổ chức ngày 9/12/2016; http://thutuong.chinhphu.vn/Home/Chinh-phu-kien-tao-va-hanh-dong--dong-luc-moi-cho-phat-trien/201612/25860.vgp, truy cập ngày 2/11/2017;

3. Thủ tướng Chính phủ, (2014), Phê duyệt kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020 ban hành theo Quyết định số 403/2014/QĐ-TTg ngày 20 tháng 3 năm 2014;

- Tiếng Anh

4. Avans, P. (1995), Embedded Autonomy, State and industrial transformation, Princeton University Press;

5. Climate Policy Initiative, (2014), The Global Landscape of Climate Finance 2014;

6. Jin Noh Hee, (2010), Financial Strategy to Accelerate Innovation for Green Growth, Korean Capital Market Institute Report;

7. Johnson C. (1982), MITI and the Japanese Economic Miracle, Canifornia: Stanford University Press;

8. Kyoto University, National Institute for Environmental Studies, Japan (2010), Primilimery study on sustainable low carbon development towards 2030 in Vietnam;

9. Ministry of Government Legislation, Korea (2010), Framework Act for Low Carbon, Green Growth;

10. UN Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, (2010), Financing an Inclusive and Green Future: A Supportive Financial System and Green Growth for Achieving the Millennium Development Goals in Asia and the Pacific;

11. UNEP (2013), Recent trends in material flows and resource productivity in Asia and the Pacific;

 

1 Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội


  • aA
  • Categories:
  • Tạp chí Ngân hàng
OTHER NEWS
GenAI - Tương lai cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
04/11/2026
Chuyển đổi hệ thống ngân hàng trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm và khuyến nghị chiến lược
04/06/2026
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức
04/10/2025
Nghiên cứu ảnh hưởng của tính cách nhà đầu tư cá nhân đến hiệu quả đầu tư cổ phiếu và một số khuyến nghị
03/07/2027
Phát triển kinh tế xanh của Đan Mạch và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
03/04/2027
Phát triển kinh tế tuần hoàn: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
03/04/2027
Chiến lược ưu tiên thiết bị di động trong hoạt động ngân hàng
03/04/2027
Việt Nam không được chậm chân với tiền kỹ thuật số - Quan điểm chiến lược của Tổng Bí thư Tô Lâm
03/06/2026
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong an ninh mạng để bảo vệ dữ liệu và tài sản lĩnh vực tài chính - ngân hàng
03/06/2026
Ứng dụng dữ liệu lớn trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
03/06/2026
Showing 1 to 10 of 1028
  • 1
  • 2
  • 3
  • 103
About SBV
  • History
  • Major Responsibilities
  • Management Board
  • Former Governors
CPI
Reserve requirement
Interest Rate
Money Market Operations
  • Notification of New Offering off the State Bank Bills
  • Invitation for Gold Auctions
  • Open Market Operations
  • Auctions for State Treasury bills
System of Credit Institutions
  • Banks
    • Commercial Banks
      • State-owned Commercial Banks
      • Joibt-stock Commercial Banks
      • Wholly Foreign Owned Banks
      • Joint-venture Banks
    • Policy Banks
    • Cooperative Banks
  • Non-Banks Credit Institution
    • Finance Companies
    • Leasing Companies
    • Other non-bank credit Institutions
  • Micro finance Institutions
  • People's Credit Fund
  • Foreign Bank Branches
  • Representative Offices
Search Bar
TIN VIDEO
Dấu ấn ngành Ngân hàng trong Triển lãm thành tựu đất nước 80 năm hành trình Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Dấu ấn ngành Ngân hàng trong Triển lãm thành tựu đất nước 80 năm hành trình Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TIN ẢNH
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
TIN ẢNH
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
Calendar Icon LỊCH LÀM VIỆC CỦA BAN LÃNH ĐẠO Microphone Icon CÁC BÀI PHÁT BIỂU Chart Icon CPI Percentage Icon LÃI SUẤT Money Icon DỰ TRỮ BẮT BUỘC Graduation Icon GIÁO DỤC TÀI CHÍNH Newspaper Icon THÔNG CÁO BÁO CHÍ ẤN PHẨM PHÁT HÀNH
Ngân hàng
ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP NHIỆM KỲ 2025-2030 Chuyển đổi số
Danh Bạ Liên Hệ Phản Ánh Kiến Nghị Đường Dây Nóng
© state bank of vietnam portal
Address: 49 Ly Thai To - Hoan Kiem - Hanoi
Webmaster: (84 - 243) 266.9435
Email: thuongtrucweb@sbv.gov.vn rss
NCSC Certification
State Bank hotline: (84 - 243) 936.6306
Information security: phone number: (+84)84.859.5983, email: antt@sbv.gov.vn
IPv6 Ready
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Digital Bankingtimes

logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan
Cổng thông tin điện tử NHNN
Thời báo Ngân Hàng
Tạp chí Ngân hàng

Digital Bankingtimes

Digital Banking Times Logos