Trước bối cảnh thế giới biến động nhanh và khó lường, việc triển khai đồng bộ bốn trụ cột gồm: Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; hội nhập quốc tế; phát triển kinh tế tư nhân; đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật sẽ là nền tảng giúp nền kinh tế tăng trưởng bền vững, thích ứng hiệu quả và bứt phá trong kỷ nguyên mới.
Đổi mới và hội nhập - trụ cột chiến lược có thể mở ra một chu kỳ tăng trưởng mới
Trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với những thay đổi địa chính trị sâu rộng và các cú sốc liên tiếp như đại dịch Covid-19 và xung đột khu vực, hầu hết các nền kinh tế trên thế giới đang đứng trước thách thức kép: Làm sao duy trì tăng trưởng bền vững? Nhưng chính trong những thời điểm khó đoán định như hiện nay, đổi mới sáng tạo và hội nhập toàn cầu lại nổi lên như hai trụ cột chiến lược có thể mở ra một chu kỳ tăng trưởng mới - nếu được tận dụng đúng cách.
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Theo Gourinchas (2025), các số liệu cho thấy năng suất nhân tố tổng hợp (Total Factor Productivity - TFP) đang giảm sút, làm chậm tốc độ tăng trưởng tiềm năng. Tuy nhiên, điểm sáng chính là khả năng khơi dậy năng suất này bằng cách tháo gỡ các rào cản cấu trúc và tận dụng những đột phá công nghệ mạnh mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI). AI không chỉ tái định hình cách con người làm việc, mà còn mở ra tiềm năng cải thiện năng suất lao động ở quy mô chưa từng có.
Chi phí phát triển AI đang giảm nhanh, trong khi năng lực ứng dụng ngày càng lan rộng - từ các nền kinh tế phát triển đến những nước đang phát triển. Nếu được triển khai đi đôi với các chính sách đào tạo lại kỹ năng lao động và khuyến khích đổi mới trong khu vực tư nhân, AI có thể trở thành chất xúc tác mạnh mẽ cho tăng trưởng dài hạn (Sam Altman, 2025).
Song song với đổi mới, hội nhập toàn cầu vẫn là động lực chủ đạo của năng suất và tăng trưởng. Mặc dù đang chịu sức ép từ căng thẳng địa chính trị, chuỗi cung ứng phân mảnh và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, thương mại toàn cầu đã chứng minh được khả năng thích ứng đáng kể. Các quốc gia “kết nối” như Việt Nam, Mexico và Morocco đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc duy trì dòng chảy thương mại và đầu tư - tạo ra một mô hình hội nhập linh hoạt hơn, thích nghi với thế giới đa cực (Pierre-Olivier, 2025).
Hội nhập thương mại không chỉ thúc đẩy xuất khẩu và đầu tư, mà còn hỗ trợ các quốc gia tiếp cận công nghệ, nâng cao tay nghề lao động và mở rộng thị trường tiêu dùng. Trong hơn ba thập kỷ qua, các nước thu nhập thấp đã tăng trưởng mạnh nhờ chính sách mở cửa và kết nối toàn cầu. Có thể nói, bài học rút ra ở đây là, các quốc gia nên hợp tác sâu hơn để giải quyết những thách thức chung như biến đổi khí hậu, khủng hoảng lương thực, và chuyển đổi số.
Để tận dụng tối đa cơ hội này, cần có một tầm nhìn chính sách nhất quán và cải cách cấu trúc mạnh mẽ - từ cải thiện khả năng dịch chuyển lao động, thúc đẩy đầu tư vào công nghệ, đến thiết lập các thể chế thương mại minh bạch và bền vững. Đổi mới không thể tách rời hội nhập - và cả hai đều cần sự điều phối hài hòa chính sách toàn cầu để mang lại lợi ích chung.
Phối hợp đồng bộ bốn trụ cột chính sách để nước ta vươn mình trong kỷ nguyên mới
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại, xu hướng địa kinh tế phân mảnh, công nghệ phát triển vượt bậc, Việt Nam đang đứng trước cả thách thức và cơ hội lớn để vươn mình mạnh mẽ. Để tận dụng hiệu quả các động lực tăng trưởng mới, việc triển khai đồng bộ bốn trụ cột chính sách theo tinh thần các nghị quyết Trung ương gần đây là hết sức cần thiết.
Hình 1: Tóm lược “bộ tứ trụ cột” chính sách để Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới
Thứ nhất, về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào lĩnh vực nghiên cứu - phát triển (R&D), coi đây là một động lực then chốt để nâng cao năng suất, sức cạnh tranh và khả năng thích ứng của nền kinh tế trong bối cảnh chuyển đổi số và xu thế phát triển khoa học - công nghệ toàn cầu. Theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết số 57), khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phải thực sự trở thành nền tảng thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước. Trong đó, cần xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia có sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trên cơ sở cơ chế chính sách thông thoáng, minh bạch và ổn định.
Các lĩnh vực công nghệ mới như AI, điện toán đám mây, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và năng lượng tái tạo cần được xác định là ưu tiên chiến lược, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và thích ứng biến đổi khí hậu. Đồng thời, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tăng cường liên kết hiệu quả giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp trong chuỗi đổi mới sáng tạo. Nhà nước cần đóng vai trò kiến tạo và dẫn dắt thị trường công nghệ thông qua các chính sách tài khóa - tiền tệ ưu đãi, đẩy mạnh đặt hàng công, khuyến khích các mô hình hợp tác công - tư (PPP), cũng như phát triển mạnh nguồn nhân lực khoa học - công nghệ chất lượng cao đáp ứng yêu cầu mới của nền kinh tế tri thức.
Điển hình như các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng để triển khai Nghị quyết số 57 như: (i) Nâng cao nhận thức và đổi mới tư duy; (ii) Hoàn thiện thể chế; (iii) Tăng cường đầu tư và hoàn thiện hạ tầng; (iv) Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động khoa học, công nghệ, triển khai các nhiệm vụ đột phá, đổi mới sáng tạo; (v) Tăng cường hợp tác quốc tế.
Đến nay, Ngân hành Nhà nước Việt Nam (NHNN) và các tổ chức tín dụng (TCTD) đã đạt được một số kết quả nổi bật trong việc thực hiện kế hoạch tại Quyết định số 1364/QĐ-NHNN ban hành ngày 05/3/2025 của Thống đốc NHNN triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW như: (i) NHNN đã nghiên cứu, hoàn thiện, trình Chính phủ dự thảo Nghị định cơ chế thử nghiệm có kiểm soát; ban hành Chương trình xây dựng thông tư năm 2025 của NHNN với tổng số dự kiến là 21 thông tư; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để tháo gỡ kịp thời các điểm nghẽn phục vụ hoạt động phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; đã và đang triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là lĩnh vực thanh toán và ngân hàng số theo chương trình đã được phê duyệt nhằm phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. (ii) Các TCTD đã điều chỉnh các quyết định phù hợp với xu thế phát triển khoa học, công nghệ, đồng thời tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cao trải nghiệm đi đôi với bảo đảm an ninh, an toàn và gia tăng sự hài lòng của khách hàng.
Thứ hai, về hội nhập quốc tế sâu rộng
Trong bối cảnh thương mại toàn cầu đang trải qua quá trình tái cấu trúc sâu rộng, Việt Nam cần chủ động củng cố vị thế trong các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, phù hợp với yêu cầu nâng cao năng lực tự chủ chiến lược về kinh tế. Theo định hướng của Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới (Nghị quyết số 59), việc tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như EVFTA, CPTPP và RCEP là nhiệm vụ trọng tâm, nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao chất lượng hội nhập và thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Bên cạnh đó, cần triển khai chính sách xúc tiến đầu tư có chọn lọc, ưu tiên các đối tác chiến lược, thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như công nghệ cao, dịch vụ số, năng lượng xanh và công nghiệp hỗ trợ. Điều này phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.
Theo Cục Thống kê, Bộ Tài chính, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 31/5/2025 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 18,39 tỷ USD, tăng 51,2% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam năm tháng đầu năm 2025 ước đạt 8,90 tỷ USD, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong năm tháng đầu năm 2025 có 46 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 275,7 triệu USD, gấp 2,7 lần cùng kỳ năm trước; có 13 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh tăng 41,6 triệu USD, tăng 27,8%. Tính chung năm tháng đầu năm 2025, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 317,3 triệu USD, gấp 2,3 lần so với cùng kỳ năm trước.
Đặc biệt, trong bối cảnh rủi ro địa chính trị gia tăng và các chuỗi cung ứng toàn cầu có xu hướng phân tán, việc đa dạng hóa đối tác thương mại và đầu tư cần được coi là một trụ cột trong chiến lược hội nhập, nhằm nâng cao khả năng chống chịu, hạn chế phụ thuộc đơn phương và bảo đảm cân đối cung - cầu chiến lược trong dài hạn. Đồng thời, cần tăng cường năng lực logistics, tiêu chuẩn hóa hàng hóa và thúc đẩy số hóa các quy trình thương mại nhằm nâng cao mức độ hội nhập sâu, thực chất và bền vững.
Thứ ba, về phát triển khu vực kinh tế tư nhân
Theo Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết số 68), phát triển khu vực kinh tế tư nhân là nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân được xác định là thành phần quan trọng nhất, giữ vai trò then chốt trong tăng trưởng, đổi mới sáng tạo, tạo việc làm và đóng góp ngân sách.
Để phát huy vai trò này, cần tiếp tục cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư - kinh doanh minh bạch, an toàn và bình đẳng, đặc biệt tháo gỡ rào cản về vốn, đất đai, mặt bằng và thị trường cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời, nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua hỗ trợ chuyển đổi số, quản trị, công nghệ và tiêu chuẩn quốc tế.
Phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cần được coi là nhiệm vụ chiến lược, thông qua quỹ đầu tư mạo hiểm, không gian sáng tạo, khu công nghệ cao và cơ chế thử nghiệm chính sách. Đồng thời, cần tăng cường liên kết giữa nhà nước - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh và năng lực hấp thụ công nghệ.
Cuối cùng, xây dựng đội ngũ doanh nhân tư nhân có tinh thần dân tộc, đạo đức và tầm nhìn hội nhập là yếu tố then chốt để hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045.
Thứ tư, về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật
Một hệ thống pháp luật minh bạch, đồng bộ, khả thi và hiệu lực - hiệu quả là nền tảng thiết yếu để đảm bảo môi trường đầu tư, kinh doanh ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Theo tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (Nghị quyết số 66), Việt Nam cần tiếp tục rà soát, hệ thống hóa và hoàn thiện pháp luật theo hướng bảo đảm tính thống nhất, loại bỏ triệt để các quy định chồng chéo, mâu thuẫn, không còn phù hợp với thực tiễn phát triển mới. Cần chú trọng đến việc nâng cao chất lượng dự báo chính sách, tác động pháp lý, bảo đảm mỗi đạo luật khi được ban hành đều có tính ổn định và khả thi cao trong tổ chức thực hiện.
Song song với đó, cần tăng cường năng lực thực thi pháp luật ở cấp cơ sở - nơi trực tiếp tiếp xúc với doanh nghiệp và người dân - thông qua đào tạo, chuyển đổi số quy trình hành chính, áp dụng công nghệ số trong quản lý công, kiểm soát thủ tục hành chính và nâng cao trách nhiệm giải trình của đội ngũ cán bộ, công chức.
Đặc biệt, quá trình xây dựng chính sách, pháp luật phải được tiến hành theo hướng thực sự dân chủ, khoa học và minh bạch. Việc tham vấn ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp, người dân, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các chuyên gia và nhà khoa học cần được thể chế hóa như một bước bắt buộc, có tính ràng buộc trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Điều này không chỉ tăng cường tính hợp hiến, hợp pháp và hợp lý của chính sách, mà còn góp phần nâng cao sự đồng thuận xã hội và hiệu quả thực thi.
Xây dựng nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải đi đôi với phát triển nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, liêm chính và phục vụ - là nền tảng để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, như các nghị quyết Trung ương và chương trình hành động của Chính phủ đã nhấn mạnh.
Việc triển khai đồng bộ và hiệu quả bốn trụ cột trên không chỉ giúp Việt Nam duy trì đà tăng trưởng trong trung hạn, mà còn tạo nền tảng vững chắc cho quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững, tự chủ và đổi mới sáng tạo trong dài hạn. Thông qua sự gắn kết và triển khai hiệu quả các trụ cột này, chúng ta có thể tin tưởng chắc chắn rằng, Việt Nam sẽ khai mở toàn bộ tiềm năng tăng trưởng trong kỷ nguyên mới, vượt qua thách thức và hòa nhập sâu với nền kinh tế toàn cầu.
Tài liệu tham khảo:
1. Pierre-Olivier, 2025. “We need a new growth compact”. https://www.imf.org/en/Publications/fandd/issues/2025/06/point-of-view-we-need-a-new-growth-compact-pierre-olivier-gourinchas
2. Bảo Ly, 2025, Cổng điện tử NHNN, Phiên họp lần thứ nhất của Ban Chỉ đạo ngành Ngân hàng về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06, https://www.sbv.gov.vn/vi/w/sbv625651
3. Cục Thống kê, 2025, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng Năm và 5 tháng đầu năm 2025, https://www.nso.gov.vn/bai-top/2025/06/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-thang-nam-va-5-thang-dau-nam-2025/
4. Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
5. Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
6. Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
7. Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Minh Châu