Ngày 05/7/2017, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố báo cáo tham vấn về tình hình kinh tế Việt Nam với nhận định, kinh tế Việt Nam tiếp tục xu hướng tăng trưởng vững chắc, chủ yếu nhờ nhu cầu trong nước và xuất khẩu công nghiệp tăng cao, các biện pháp cải cách được tăng cường trên mọi lĩnh vực, nhất là cải cách tài khóa, làm cơ sở cần thiết để chuyển sang mô hình phát triển bền vững trong bối cảnh rủi ro toàn cầu gia tăng. Đáng chú ý là, chính sách tiền tệ tiếp tục được điều hành phù hợp, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Một số chỉ số kinh tế kinh tế và tài chính cơ bản (% so năm trước)
|
Kết quả thực tế |
Dự báo |
|||||
|
2012 |
2013 |
2014 |
2015 |
2016 |
2017 |
2018 |
GDP thực |
5,2 |
5,4 |
6,0 |
6,7 |
6,2 |
6,3 |
6,3 |
CPI trung bình hàng năm |
9,1 |
6,6 |
4,1 |
0,6 |
2,7 |
4,9 |
4,8 |
CPI cuối năm |
6,8 |
6,0 |
1,8 |
0,6 |
4,7 |
5,0 |
4,5 |
Thu ngân sách và trợ cấp (% so GDP) |
22,6 |
23,1 |
22,2 |
23,7 |
23,2 |
23,2 |
23,1 |
Thu từ dầu thô (% so GDP) |
3,8 |
3,4 |
2,5 |
1,6 |
0,9 |
0,8 |
0,8 |
Tổng chi ngân sách (% so GDP) |
29,5 |
30,5 |
28,5 |
30,0 |
29,8 |
29,0 |
28,9 |
Chi tiêu phục vụ sản xuất (% so GDP) |
20,4 |
21,6 |
20,4 |
21,7 |
22,1 |
20,8 |
21,0 |
Nợ công và nợ bảo lãnh (% so GDP) |
47,9 |
51,8 |
55,1 |
58,3 |
62,4 |
63,3 |
64,3 |
Tổng phương tiện thanh toán (M2) |
18,5 |
18,8 |
17,7 |
16,2 |
18,4 |
18,1 |
17,4 |
Tăng trưởng tín dụng |
8,7 |
12,7 |
13,8 |
18,8 |
18,8 |
17,1 |
16,9 |
Cán cân vãng lai (tỷ USD) |
6,0 |
4,5 |
4,9 |
-0,1 |
4,1 |
2,7 |
2,0 |
Giá trị xuất khẩu (tỷ USD, giá FOB) |
73,6 |
77,4 |
80,8 |
84,6 |
87,7 |
90,0 |
91,8 |
Giá trị nhập khẩu (tỷ USD, giá FOB) |
68,0 |
72,3 |
74,3 |
80,8 |
80,8 |
83,5 |
85,6 |
Dự trữ ngoại hối (tỷ USD) |
25,4 |
26,0 |
34,3 |
28,4 |
36,7 |
42,2 |
48,6 |
Nợ quốc tế (% so GDP) |
37,4 |
37,3 |
38,3 |
43,1 |
47,8 |
49,5 |
51,0 |
GDP danh nghĩa (nghìn tỷ đồng) |
3.245 |
3.584 |
3.938 |
4.193 |
4.503 |
4.965 |
5.486 |
GDP (tỷ USD) |
155,6 |
170,6 |
185,9 |
191,5 |
201,3 |
215,4 |
232,7 |
GDP bình quân đầu người (USD) |
1.753 |
1.902 |
2.049 |
2.088 |
2.173 |
2.301 |
2.460 |
Nguồn: Thống kê quốc gia và tính toán của IMF
Báo cáo nêu rõ, Việt Nam là nền kinh tế năng động và đang trên đà phát triển, nhờ nền tảng kinh tế vững chắc. Sau khi tăng 6,7% trong năm 2015, GDP năm 2016 tăng 6,2%, thấp hơn kết quả tăng 6,7% trong năm trước đó. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tăng trưởng thấp trong năm 2016 là do giá dầu giảm đã ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách, hạn hán và tình trạng xâm thực mặn đã tác động tiêu cực đến khu vực nông nghiệp. Trong năm 2016, tài khoản vãng lai thặng dư trở lại và đạt khoảng 4,1% GDP, dự trữ ngoại hối tăng đáng kể. Trong năm 2017, mặc dù hoạt động dầu khí vẫn gặp khó khăn trong những tháng đầu năm, nhưng động lực tăng trưởng tiếp tục vững chắc nhờ công nghiệp chế tạo và đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) tăng cao, nhu cầu trong nước bền vững, sản xuất nông nghiệp có dấu hiệu phục hồi. Đầu năm 2017, lạm phát tăng khoảng 5% so với cùng kỳ năm trước do Chính phủ điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế và chi phí giáo dục.
Chính phủ đang triển khai rộng rãi các chương trình cải cách và ý thức được những hạn chế về tài khóa, đây là yếu tố cần thiết để cải thiện mô hình tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh rủi ro quốc tế ngày càng tăng. Ngoài ra, Chính phủ đã đưa ra kế hoạch củng cố tài khóa, bắt đầu thực hiện từ đầu năm 2017. Đáng chú ý là, Chính sách tiền tệ tiếp tục được điều hành phù hợp, góp phần kiểm soát lạm phát, tỷ giá hối đoái giảm nhẹ sau khi giảm mạnh vào năm 2016. Chính phủ cũng từng bước thắt chặt các biện pháp chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng, trong khi tín dụng tiếp tục tăng cao.
Lãnh đạo IMF đã hoan nghênh những tiến triển về cải cách tích cực trong lĩnh vực ngân hàng, nhất là trong việc xử lý tình trạng mất cân đối về tài sản và nâng cao các tỷ lệ phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, cần đẩy nhanh tốc độ và quy mô cải cách, bao gồm việc triển khai khung khổ pháp lý để xử lý những vấn đề trong lĩnh vực ngân hàng, tăng cường vai trò của Công ty Quản lý tài sản (VAMC) và thực hiện những biện pháp cải cách khác nhằm xử lý nợ xấu và tăng cường kỷ luật thị trường.
Chính phủ đã đưa ra kế hoạch giảm dần vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế và giảm dần mức độ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp, đồng thời khuyến khích kinh tế tư nhân, đây là tiền đề cần thiết để duy trì xu hướng tăng trưởng bền vững. Đáng chú ý là, khung khổ cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước đã được đề xuất và có nhiều tiến bộ.
Ngoài ra, Lãnh đạo IMF cũng đánh giá cao những nỗ lực cải cách tài khóa và các biện pháp của Chính phủ về đảm bảo và tăng cường phát triển kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường, nhất trí với nỗ lực của Chính phủ trong việc giảm dần mức độ thâm hụt tài khóa xuống 3½% GDP vào năm 2020 và duy trì tỷ lệ nợ công dưới ngưỡng an toàn 65% GDP. Đồng thời, nhấn mạnh tầm quan trọng của các biện pháp cải tiến nguồn thu ngân sách, như thống nhất các mức thuế giá trị gia tăng, tiến hành tăng các mức thuế đánh vào tài sản và nhà đất, thuế tiêu thụ nội địa và thuế bảo vệ môi trường. Lãnh đạo IMF cũng nhấn mạnh yêu cầu phải cắt giảm mạnh các biện pháp miễn trừ và ưu tiên đối với khu vực kinh tế nhà nước, tăng cường quản lý thuế. Nỗ lực cải cách theo hướng tăng dần chi phí dịch vụ công là biện pháp đáng khích lệ, nhưng cần đảm bảo tính công bằng, bảo vệ người nghèo và nâng cao chất lượng dịch vụ. Cần đẩy mạnh cải cách dịch vụ dân sự theo hướng giảm lương và thu nhập đối với lao động hưởng lương từ ngân sách nhà nước, nâng cao hiệu quả chi tiêu công, góp phần tăng thêm nguồn tài chính cho các lĩnh vực ưu tiên như phát triển hạ tầng và chi tiêu xã hội.
Trong năm 2017, GDP được dự báo tăng 6,3%, lạm phát cơ bản ổn định quanh tỷ lệ 5% do Chính phủ tiếp tục tăng thuế và điều chỉnh tăng giá cả nhiều loại hình dịch vụ. Do nhập khẩu tăng cao, thặng dư cán cân vãng lai có thể giảm nhẹ so với năm 2016. Triển vọng kinh tế ngắn hạn là tích cực, nhưng rủi ro kinh tế trung - dài hạn vẫn ở mức cao, do nợ công tăng cao, chưa xử lý dứt điểm tình trạng nợ đọng trong lĩnh vực ngân hàng, điều kiện tài chính toàn cầu ngày càng khắt khe, xu hướng gia tăng chủ nghĩa bảo hộ và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương thất bại có thể gây ra những cú sốc bất thường, gây gián đoạn về nhu cầu bên ngoài và ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất khẩu cũng như tình hình kinh tế Việt Nam. Trong bối cảnh đó, việc thực hiện thành công các chương trình cải cách của Chính phủ có thể sẽ hỗ trợ tiềm năng tăng trưởng và nâng cao khả năng đối phó với những biến động từ bên ngoài. Đáng chú ý, việc triển khai thực hiện Hiệp định Thương mại giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu cũng như với những đối tác thương mại khác có thể sẽ có tác dụng hỗ trợ xuất khẩu và thúc đẩy dòng vốn FDI vào Việt Nam.
Về một số khuyến nghị, để đạt mức tăng trưởng cao với mức lạm phát thấp, Chính phủ Việt Nam cần đẩy mạnh những biện pháp cải cách quan trọng theo hướng đề cao và quan tâm phát triển khu vực kinh tế tư nhân, củng cố nền tài chính công và xử lý những vấn đề còn tồn đọng trong khu vực tài chính, tiếp tục tăng cường các giải pháp xóa đói giảm nghèo. Lãnh đạo IMF cũng nhấn mạnh những rủi ro bắt nguồn từ tốc độ cải cách ngân hàng chậm chạp, tín dụng ngân hàng tiếp tục tăng cao, trong khi dư địa tài khóa hạn chế và dự trữ ngoại hối còn thấp so với yêu cầu. Trong bối cảnh đó, lãnh đạo IMF hối thúc các cơ quan Chính phủ mở rộng quy mô cải cách nhằm duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh tiềm năng tăng trưởng và cải thiện mô hình kinh tế theo hướng phát triển bền vững và năng suất cao. Bên cạnh đó, Lãnh đạo IMF cho rằng, chính sách tiền tệ vẫn được coi là thích hợp, nhưng phải linh hoạt trước những dấu hiệu lạm phát. Cần phòng ngừa nguy cơ tín dụng tăng cao và tiến tới phân bổ tín dụng dựa theo cơ chế thị trường, như thế mới có thể nâng cao hiệu quả kinh tế và đạt được tốc độ tăng trưởng bền vững.
Xuân Thanh
Nguồn: IMF tháng 7/2017