Trong báo cáo cập nhật mới nhất về triển vọng kinh tế toàn cầu, các chuyên gia thuộc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) nhận định, kinh tế toàn cầu năm 2017 tiếp tục duy trì động lượng tăng trưởng, nhưng GDP tại nhiều nước vẫn trầm lắng, lạm phát trong năm 2017 chỉ tăng nhẹ.
Báo cáo nêu rõ, xu hướng phục hồi trong năm 2016 tiếp tục được duy trì trong những tháng đầu năm 2017, phản ánh kết quả gia tăng nhu cầu trong nước tại các nước phát triển và tại Trung Quốc, tình hình tại nhiều nước mới nổi được cải thiện. Tuy nhiên, sau khi tăng mạnh trong quý I/2017, thương mại toàn cầu bắt đầu hụt hơi và chỉ tăng nhẹ trong quý II/2017. Điều này cho thấy, nhu cầu chi tiêu trên toàn cầu còn rất yếu ớt, các doanh nghiệp ngại đầu tư. Vì thế, lạm phát thấp có nguy cơ tiếp tục kéo dài, mặc dù lượng tiền cung ứng tăng cao.
Theo đánh giá của IMF, chỉ số giá cả các loại hàng hóa chủ chốt trong giai đoạn từ tháng 02-08/2017 giảm tới 5%, đặc biệt là một số mặt hàng năng lượng.
Trong giai đoạn từ tháng 02-8/2017, giá dầu thế giới giảm tới 8,1%, mặc dù Tổ chức các nước Xuất khẩu dầu (OPEC) và một số quốc gia ngoài OPEC thông báo sẽ tiếp tục cắt giảm sản lượng dầu cho tới quý I/2018. Nguyên nhân cơ bản khiến giá dầu giảm sâu là do sản lượng dầu đá phiến tại Mỹ cũng như hoạt động khai thác dầu tại Libya và tại Nigeria tăng cao hơn kỳ vọng. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu dầu từ OPEC vẫn tương đối sôi động, mặc dù sản lượng giảm thấp. Trong những ngày cuối tháng 8 vừa qua, giá dầu thế giới dao động quanh ngưỡng 50 USD/thùng, thấp hơn so với mức giá trong những tháng đầu năm.
Trong giai đoạn này, chỉ số giá khí đốt tự nhiên tại Mỹ, châu Âu và Nhật Bản giảm trung bình tới 9,6%. Nguyên nhân chủ yếu là do yếu tố mùa vụ, nguồn cung ứng tại Mỹ và CHLB Nga tăng vững, giá dầu giảm cũng kéo giá khí đốt giảm theo. Trong khi đó, căng thẳng ngoại giao giữa một số nước Trung Đông không ảnh hưởng đến thị trường khí đốt tự nhiên, do xuất khẩu từ Qatar tiếp tục tăng.
Cũng trong giai đoạn này, chỉ số giá than tại Australia và CH Nam Phi tăng trung bình 16,5%. Trong đó, nhập khẩu vào Trung Quốc tăng cao trong những tháng đầu năm 2017 đóng vai trò rất lớn. Đáng chú ý, khi Trung Quốc tiến hành các biện pháp hạn chế nhập khẩu than (bắt đầu từ ngày 01/7/2017) và kiểm soát chặt chẽ hoạt động khai thác than trong nước. Biện pháp này của Trung Quốc và những xích mích lao động tại các mỏ than tại Australia đã gây áp lực hỗ trợ giá than.
Trong nhóm hàng hóa phi năng lượng, giá cả các mặt hàng kim loại tăng nhẹ, nhưng giá nông sản lại giảm sâu. Giá kim loại tăng trung bình khoảng 0,8%, mặc dù có sự khác biệt giữa các loại hàng hóa kim loại. Cho đến tháng 6/2017, chỉ số giá cả các mặt hàng kim loại ghi nhận mức thấp nhất trong 8 tháng trước đó do nhu cầu giảm thấp, nhất là tại Mỹ và Trung Quốc. Sau đó, giá cả các mặt hàng kim loại phục hồi nhanh chóng, do tình hình kinh tế vĩ mô có vẻ lạc quan, nhất là tại Trung Quốc. Trong giai đoạn tháng 02-08/2017, giá đồng và nhôm tăng trên 9,0%, do nhu cầu tăng cao trong khi nguồn cung hạn chế; giá quặng sắt giảm tới 16%, chủ yếu là do nguồn cung từ Australia, Brazil, và Trung Quốc tăng khá cao.
Từ tháng 2 đến tháng 8/2017, chỉ số giá cả các mặt hàng nông sản giảm tới 5%. Giá ngũ cốc tăng mạnh trong tháng 6/2017 do một số lo ngại bắt nguồn từ hiện tượng thời tiết khô hạn tại Bắc Bán cầu, nhưng sau đó giảm sâu trong tháng 8/2017 do sản lượng vào cuối vụ thu hoạch 2017-2018 được dự báo tăng cao hơn so với kỳ vọng. Tuy nhiên, giá các loại thịt tăng cao, do nhu cầu tăng cao hơn so với kỳ vọng và nguồn cung hạn hẹp.
Từ đầu năm nay, chỉ số lạm phát cơ bản bắt đầu xu hướng giảm, do tác động của đà phục hồi giá dầu trong năm 2016 có dấu hiệu phai nhạt dần, gây áp lực giảm giá sang những mặt hàng tiêu dùng khác. Vì thế, lạm phát trong năm 2017 được dự báo tăng rất thấp, nhất là tại các nước đang phát triển và mới nổi. Về cơ bản, lạm phát lõi (không tính đến giá năng lượng và thực phẩm) chỉ tăng rất thấp. Tại hầu hết các nước phát triển, lạm phát lõi thấp xa mục tiêu do ngân hàng trung ương (NHTW) đề ra, mặc dù nhu cầu trong nước tăng cao và tỷ lệ thất nghiệp giảm mạnh.
Sau khi tăng quanh mức 1,0% trong vài năm gần đây, lạm phát tại khu vực đồng tiền chung euro bắt đầu tăng thêm lên khoảng 1,2% từ tháng 4 năm nay. Trong khi đó, lạm phát tại Nhật Bản đứng ở mức âm trong sáu tháng liên tiếp cho đến tháng 7/2017. Tại Mỹ, lạm phát lõi tăng cao hơn một chút, nhưng giảm mạnh từ đầu năm nay xuống 1,4% trong tháng 8/2017. Lạm phát yếu ớt cũng được ghi nhận tại nhiều nước phát triển khác như Australia, Canada, Đan Mạch, Hàn Quốc, Na Uy, vùng lãnh thổ Đài Loan. Ngoại trừ trường hợp VQ Anh, lạm phát tăng cao do tác động bắt nguồn từ đà mất giá của bảng Anh.
Tại các nước phát triển, lạm phát lõi tăng thấp là hiện tượng lạ lùng, trong bối cảnh hoạt động kinh tế sôi động hơn so với kỳ vọng, điều này phản ánh độ trễ của tác động bắt nguồn từ tỷ lệ thất nghiệp giảm đối với mức tăng trưởng lương. Trong những năm gần đây, lương thực tế tại hầu hết các nước phát triển tăng cùng với tốc độ tăng năng suất lao động. Tuy nhiên, phân tích phát hiện ra rằng, lương tăng thấp là do tỷ trọng lao động làm việc không trọn ngày bắt buộc và lao động làm việc theo giờ tăng cao.
Tại nhiều nước đang phát triển và mới nổi, tác động mờ nhạt dần của xu hướng mất giá bản tệ trước đây và tăng trở lại so với USD trong thời gian gần đây đã hỗ trợ lạm phát tăng nhẹ. Tuy nhiên, giá thực phẩm giảm thấp và năng lực kinh tế dư thừa đã khiến lạm phát lõi tại Ấn Độ và Brazil giảm mạnh, ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát trung bình tại nhóm các nước đang phát triển và mới nổi. Tại Trung Quốc, lạm phát lõi trong tháng 7/2017 vẫn ổn định quanh mức 2,0%. Trái lại, áp lực lạm phát năm 2017 tăng cao tại Cộng đồng các Quốc gia độc lập, Trung Đông, Bắc Phi (kể cả Afganistan và Pakistan), chủ yếu là do đồng bản tệ mất giá, các biện phát tăng thuế và cắt giảm trợ cấp tại một số nước.
Trong hai năm 2017-2018, lạm phát cơ bản được dự báo tăng nhẹ trên phạm vi toàn cầu, mặc dù thấp hơn so với dự báo đưa ra hồi tháng 4/2017, một phần là do giá dầu thấp hơn so với dự báo. Tại các nước phát triển, lạm phát được dự báo tăng dần từ mức tăng 0,8% trong năm 2016 lên 1,7% trong năm 2017, phản ánh xu hướng phục hồi mang tính chu kỳ về nhu cầu và do giá cả hàng hóa tăng trong sáu tháng cuối năm 2016. Dự báo, lạm phát cơ bản ổn định ở mức 1,7% trong năm 2018 và tăng lên ngưỡng 2,0% trong giai đoạn trung hạn. Tại các nước đang phát triển và mới nổi (không kể trường hợp Argentian và Venezuela), lạm phát trong hai năm 2017-2018 được dự báo ổn định lần lượt ở mức 4,2% và 4,4%, dao động quanh mức lạm phát 4,3% trong năm 2016.
Tại Mỹ, mặc dù giá chất đốt tăng thấp, cộng với những cú sốc liên quan đến giá điện thoại và dược phẩm, lạm phát được kỳ vọng vẫn tăng đáng kể, nhưng thấp hơn so với dự báo đưa ra hồi tháng 7/2017. Sau khi tăng 1,3% vào năm 2016, lạm phát hàng tiêu dùng dự kiến tăng 2,1% trong năm 2017, thấp hơn dự báo đưa ra hồi tháng 4/2017 là tăng 2,7%. Lạm phát lõi vẫn trầm lắng và được dự báo tăng chậm, vượt 2,0% vào năm 2019 và giảm về mức mục tiêu 2,0% trong giai đoạn trung hạn.
Tại khu vực đồng tiền chung euro, lạm phát được dự báo tăng từ mức 0,2% trong năm 2016 lên 1,5% trong năm nay, chủ yếu là do giá năng lượng tăng cao và nhu cầu phục hồi theo chu kỳ. Tuy nhiên, lạm phát cơ bản vẫn ở mức thấp do mức lương tăng chậm, và tỷ lệ thất nghiệp tại một số nước thành viên vẫn khá cao. Lạm phát cơ bản được dự báo sẽ tiệm cận mức lạm phát lõi do tác động mờ nhạt dần của lạm phát giá năng lượng và tiến tới mục tiêu 2,0% do NHTW châu Âu đề ra, nhưng vẫn tăng thấp và đạt 1,9% vào năm 2021. Tại VQ Anh, lạm phát cơ bản được dự báo tăng 2,6% trong năm nay, một mức tăng khá cao từ kết quả tăng 0,7% trong năm 2016. Sau đó, lạm phát giảm dần về mục tiêu 2,0% do NHTW đề ra, do tác động mờ nhạt dần của xu hướng mất giá bản tệ.
Tại Nhật Bản, sau khi giảm phát vào năm 2016, lạm phát trong năm 2017 được dự báo tăng trở lại lên mức 0,4%, chủ yếu do giá năng lượng tăng cao và chênh lệch tăng trưởng giảm dần (giữa GDP thực tế và tăng trưởng tiềm năng), nhưng vẫn thấp hơn mục tiêu do NHTW đề ra (trong giai đoạn trung hạn).
Tại các nước đang phát triển và mới nổi, diễn biến lạm phát có sự khác biệt đáng kể. Tại Trung Quốc, lạm phát cơ bản được kỳ vọng tăng thấp ở mức 1,8% trong năm 2017, phản ánh giá thực phẩm yếu ớt trong những tháng gần đây, sau đó tăng dần lên 2,6% trong giai đoạn trung hạn. Tại Brazil và CHLB Nga, lạm phát được dự báo giảm sâu hơn so với dự báo đưa ra hồi tháng 4/2017, do chênh lệch tăng trưởng ở mức cao, đồng bản tệ tăng giá, nguồn cung tăng cao tác động tiêu cực đến giá thực phẩm. Tại Mêhicô, lạm phát cơ bản được kỳ vọng tăng 5,9% trong năm nay do động thái tự do hóa giá chất đốt trong nước và tác động mất giá của bản tệ từ đầu năm nay, nhưng giảm dần trong năm 2018 về mức mục tiêu 2,0-4,0% do NHTW đề ra. Tại CH Nam Phi, sau khi tăng 6,3% trong năm 2016, lạm phát cơ bản giảm xuống mức tăng 5,4% trong năm nay. Đáng chú ý, xu hướng mất giá của đồng bản tệ khiến lạm phát tại Thổ Nhĩ Kỳ tăng khá cao, với kỳ vọng tăng trên 5,0% trong năm nay.
Hoàng Thế Thỏa (Nguồn: IMF tháng 10/2017)