Ngày 13/3, Viện chiến lược Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội thảo Khoa học giới thiệu, trao đổi kết quả nghiên cứu đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ “Kinh nghiệm xây dựng khuôn khổ chính sách nhằm phát triển và vận hành cơ chế bán buôn tín dụng cho các tổ chức tài chính vi mô”. Tham dự Hội thảo có đại diện một số đơn vị thuộc NHNN; đại diện một số NHTM; đơn vị nghiên cứu…
Quang cảnh Hội thảo
Phát biểu khai mạc Hội thảo Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, NHNN TS.Phạm Minh Tú cho biết, tổ chức tài chính vi mô (TCVM) ra đời và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Các tổ chức này có chức năng hỗ trợ cho đối tượng người cận nghèo, giúp họ phát triển và trở thành khách hàng tương lai của các ngân hàng thương mại.
Trình bày tính cấp thiết đề tài nghiên cứu, Chủ nhiệm đề tài TS. Nguyễn Hồng Yến, Trưởng bộ môn Học viện Ngân hàng cho biết, lịch sử hình thành và phát triển TCVM Việt Nam chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn khởi đầu (trước năm 1990), hoạt động TCVM tập trung chủ yếu vào việc cứu giúp những người, hộ gia đình gặp rủi ro bất ngờ, đe dọa cuộc sống và có thể đẩy họ rơi vào thảm cảnh; giai đoạn mở rộng (1991 - 2005) có sự ra đời của hàng loạt các dự án tài trợ từ các NGO quốc tế, các dự án từ các tổ chức quốc tế, các dự án song phương với các mô hình thử nghiệm khác nhau và giai đoạn phát triển theo chiều sâu (từ 2005 - nay), trong bối cảnh các nguồn tài trợ, viện trợ suy giảm đáng kể, một số tổ chức thực hiện chuyển đổi vào khu vực chính thức, hoạt động dưới sự quản lý và giám sát của NHNN theo Luật các TCTD 47/2010/QH-12, các chương trình dự án TCVM ở khu vực bán chính thức thực hiện đăng ký hoạt động theo Quyết định 20/2017/QĐ-TTg.
Chủ nhiệm đề tài cho biết, mặc dù TCVM Việt Nam ra đời và phát triển từ hơn 3 thập kỷ, tuy nhiên bán buôn tín dụng vẫn là một vấn đề khá mới mẻ. Ở khu vực bán chính thức tính đến 31/12/2022, NHNN đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký đối với 71 chương trình, dự án TCVM hoạt động trên địa bàn 34 tỉnh, thành phố, trong đó (i) 03 chương trình, dự án TCVM của tổ chức phi chính phủ nước ngoài; (ii) 02 chương trình, dự án TCVM của tổ chức phi chính phủ trong nước có địa bàn hoạt động từ 02 tỉnh, thành phố trở lên; (iii) 66 chương trình, dự án TCVM của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ trong nước có địa bàn hoạt động trong 01 tỉnh, thành phố (NHNN, 2022). Mặc dù vậy, trải qua nhiều năm hoạt động, thị trường tài chính vi mô Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển tương xứng với tiềm năng. Tính đến cuối năm 2022, tổng dư nợ cho vay của các tổ chức TCVM chính thức chiếm 86,9% tổng tài sản, đạt 8.746 tỷ đồng, với tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ở mức thấp, chỉ chiếm 0,83% tổng dư nợ cho vay; tổng dư nợ cho vay của các chương trình, dự án TCVM được cấp giấy chứng nhận đạt 1.998 tỷ đồng; tỷ lệ nợ quá hạn thấp, chiếm 0,62% tổng dư nợ cho vay (tương đương hơn 12 tỷ đồng) (NHNN, 2022). Kết quả này đã góp phần cải thiện mức sống của người nghèo, hạn chế tình trạng tín dụng đen đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
TS. Nguyễn Hồng Yến cho biết thêm, tuy nhiên, hiện nay, tỷ lệ người nghèo, hộ gia đình có thu nhập thấp tại nhiều địa phương vẫn còn khá cao, nhu cầu vay vốn sản suất kinh doanh, cải thiện đời sống của thành viên ngày càng lớn. Số khách hàng vay tại 04 tổ chức tài chình vi mô được Ngân hàng Nhà nước cấp phép mới đạt 477.247 khách hàng và thống kê tại các chương trình/dự án tài chính vi mô đang hoạt động là 110.000 người. Trở ngại lớn nhất của các tổ chức TCVM là hạn chế về khả năng tiếp cận tài chính, đặc biệt với các tổ chức TCVM phi chính thức. Việc tiếp cận vốn từ khu vực tài chính chính thức gặp nhiều khó khăn khi các tổ chức TCVM không thể huy động tiền gửi tiết kiêm và không đáp ứng được điều kiện về tài sản thế chấp trong các khoản vay với ngân hàng. Năng lực quản lý hạn chế của các tổ chức tài chính vi mô còn yếu kém. Các chương trình, dự án tài chính vi mô hoạt động khá hiệu quả tại Việt Nam thời gian qua nhưng chưa có đội ngũ quản lý chuyên nghiệp nên hoạt động còn hạn chế. “Do vậy, các tổ chức TCVM ở Việt Nam rất cần sự hỗ trợ về vốn và tăng cường năng lực với cơ chế hỗ trợ đa dạng. Việc hình thành cơ chế bán buôn vốn tín dụng hoạt động hiệu quả là nhu cầu bức thiết với các tổ chức TCVM ở giai đoạn này” TS. Yến nói.
Chủ nhiệm đề tài cho biết thêm mục tiêu cụ thể nghiên cứu của đề tài, nhằm hệ thống hoá cơ sở lý luận về mô hình bán buôn tín dụng đối với các tổ chức TCVM; Nghiên cứu các kinh nghiệm về cơ chế chính sách, mô hình hoạt động, điều kiện phát triển và vận hành cơ chế bán buôn tín dụng cho các tổ chức TCVM ở một số quốc gia trên Thế Giới; Đánh giá điều kiện phát triển và vận hành cơ chế bán buôn tín dụng cho các tổ chức TCVM ở Việt Nam; Đề xuất mô hình, cơ chế bán buôn tín dụng TCVM phù hợp với điều kiện Việt Nam; Đề xuất hệ thống các giải pháp và khuyến nghị chính sách nhằm tạo điều kiện vận hành cơ chế bán buôn tín dụng cho các tổ chức TCVM ở Việt Nam.
Đại diện nhóm đề tài cũng thông tin sự cần thiết và khái niệm về bán buôn tín dụng cho các tổ chức tài chính vi mô. Theo đó, TCVM đang ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển. TCVM đồng hành cùng đời sống người dân và chứng minh được sức mạnh của mình trong công cuộc giảm nghèo và phát triển kinh tế bền vững. TCVM đã đi đến khắp các châu lục trên thế giới, có mặt khắp mọi miền của đất nước, đến tới những thôn bản làng mạc xa xôi nhất để cung cấp các dịch vụ TCVM cho các khách hàng có thu nhập thấp. Bên cạnh hoạt động cho vay, các dịch vụ TCVM còn là tiền gửi tiết kiệm, chuyển tiền, dịch vụ thanh toán, bảo hiểm, tư vấn giáo dục tài chính… Tổ chức tài chính vi mô (MFI) là cầu nối, đưa các dịch vụ TCVM đến với người có nhu cầu. Với sứ mệnh là thực hiện thành công mục tiêu xã hội và mục tiêu bền vững, MFI có vai trò cung cấp dịch vụ tài chính cho xã hội, góp phần vào sự phát triển của hệ thống tài chính, là công cụ hữu ích thực hiện xóa đói giảm nghèo, giúp người nghèo tránh, giảm rủi ro trong kinh tế và cuộc sống. Trong quá trình đó, các MFI luôn có nhu cầu rất lớn về tài chính để củng cố và mở rộng nguồn vốn nhằm thực hiện vai trò của mình.
Tại hội thảo các đại biểu đã trao đổi một số vấn đề từ kết quả đề tài như: Nhu cầu về một trung gian bán buôn vốn cho các tổ chức tài chính vi mô; Điều kiện có sẵn các tổ chức tài chính vi mô đủ điều kiện; Lợi thế so sánh của quỹ bán buôn tín dụng cho các tổ chức tài chính vi mô; Khung pháp lý phải tạo hành lang vận hành thuận lợi cho hoạt động bán buôn tín dụng…
NN