Trong 25 năm tới, 60% công việc sẽ là những nghề hoàn toàn mới, phản ánh tốc độ chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế số. Chuyển đổi số không chỉ là xu thế mà là bước ngoặt làm thay đổi toàn diện cách con người sống và làm việc. Đặt người dân và doanh nghiệp vào trung tâm, việc phổ cập kỹ năng số trở thành yếu tố then chốt để tăng năng suất, nâng cao năng lực cạnh tranh và thích ứng linh hoạt với tương lai số.
Bình dân học vụ số chìa khóa của kỷ nguyên số. (Ảnh nguồn: Internet)
I. Kinh nghiệm của một số nước về phổ cập giáo dục số
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc hiện là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ, song Viện nghiên cứu chính sách chiến lược Australia từng cảnh báo Mỹ và phương Tây rằng, Trung Quốc đang dẫn đầu thế giới về 37/44 công nghệ mũi nhọn, trong đó có trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ 5G, thực tế ảo, ô tô tự lái, in 3D, robot, thiết bị bay không người lái…, trong khi Mỹ chỉ đi đầu trong một số lĩnh vực như: Sản xuất vaccine, điện toán lượng tử và các hệ thống phóng không gian.
Theo Báo cáo của Viện Nghiên cứu toàn cầu McKinsey (MGI, 2017), 1/3 trong số 262 “unicorn” (Công ty khởi nghiệp được định giá trên 1 tỷ USD) trên thế giới hiện nay là của Trung Quốc, chiếm 43% tổng giá trị của các “unicorn” trên toàn cầu. Công nghệ số có thể thay đổi và tạo ra khoảng từ 10% đến 45% doanh thu công nghiệp của Trung Quốc vào năm 2030. Internet đóng góp 1% tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc từ năm 2013 đến năm 2025.
Đặc biệt, kể từ năm 2015, Trung Quốc đã vươn lên dẫn đầu thương mại điện tử thế giới, với tổng giao dịch hiện nay lớn hơn tổng giao dịch của Pháp, Đức, Nhật Bản, Anh và Mỹ. Mua sắm trực tuyến chiếm 18% tổng doanh số bán lẻ, so với chỉ 8% ở Mỹ. Mỗi năm, Tập đoàn thương mại điện tử Alibaba xử lý số giao dịch mua bán nhiều hơn cả Ebay và Amazon cộng lại. Với thế mạnh về game trực tuyến và mạng xã hội, Tencent hiện là công ty có giá trị lớn thứ 10 toàn cầu (khoảng 275 tỷ USD). Còn Baidu là công ty thống trị mảng công cụ tìm kiếm tại thị trường nội địa sau khi Google phải rút khỏi thị trường Trung Quốc do bị kiểm duyệt. Ba nền tảng công nghệ hàng đầu này của Trung Quốc đã phát triển đến trình độ có thể cạnh tranh với các ông lớn về công nghệ ở Mỹ là Amazon, Apple, Facebook, Google và Netflix.
Trung Quốc đang nhanh chóng số hóa các ngành trọng yếu như ngân hàng, tài chính, y tế và giáo dục với thị trường thanh toán di động phát triển mạnh mẽ. Năm 2016, giao dịch di động tại Trung Quốc vượt 790 tỷ USD, gấp 11 lần so với Mỹ. Sự phổ biến của các nền tảng như WeChat Pay và Alipay cho phép người dùng thanh toán mọi dịch vụ mà không cần dùng tiền mặt. Với sự phát triển mạnh mẽ của Internet và Smartphone, Trung Quốc đang tiến gần đến mục tiêu trở thành nền kinh tế không dùng tiền mặt đầu tiên trên thế giới.
Sự thành công của Trung Quốc trong công nghệ số là kết quả của sự quyết đoán từ lãnh đạo Nhà nước, sự bùng nổ của Smartphone và một hệ sinh thái số phát triển mạnh mẽ. Chính phủ Trung Quốc không chỉ tạo ra môi trường thể chế thuận lợi cho doanh nghiệp mà còn đóng vai trò lớn trong việc đầu tư và tiêu thụ các công nghệ số, đồng thời đẩy mạnh nâng cao nhận thức số cho người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt, với 77% dân số nhận thức được dịch vụ thanh toán di động, Trung Quốc đã vượt xa nhiều nền kinh tế lớn trong việc ứng dụng công nghệ số. Sự phát triển vượt bậc này giúp Trung Quốc rút ngắn khoảng cách với các cường quốc kinh tế như Mỹ, Anh và Pháp trong lĩnh vực công nghệ.
2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Thuộc Top dẫn đầu nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G-20) và nhóm các nước dẫn đầu về Chỉ số sẵn sàng về Chính phủ điện tử do Liên hợp quốc xây dựng, Hàn Quốc ngay từ những năm 1980 đã bắt ta triển khai dự án Hệ thống thông tin cơ bản quốc gia (NBIS), ứng dụng công nghệ thông tin trên toàn quốc, với hàng nghìn các dịch vụ công đã có sẵn trên mạng thông qua các biểu mẫu điện tử trên khắp các trang web Chính phủ trung ương, khu vực và địa phương, tập trung vào 3 mảng dịch vụ chính, bao gồm: (1) Chính phủ vì Công dân (G4C); (2) Chính phủ với Doanh nghiệp (G2B); và (3) Chính phủ với Chính phủ (Dịch vụ liên chính phủ - G2G).
Hàn Quốc đã chủ động thực hiện kịp thời và mạnh mẽ các chính sách và sáng kiến về giáo dục công nghệ thông tin và phổ cập Internet cho người dân, hướng dẫn công chúng nắm áp dụng mạng Internet và công nghệ thông tin vào cuộc sống hàng ngày. Hiện tất cả các trường tiểu học và trung học trên toàn quốc và 99,2% số hộ gia đình Hàn Quốc kết nối mạng Internet, đứng đầu trong số 175 quốc gia thuộc Liên minh viễn thông quốc tế (ITU). Theo tổ chức nghiên cứu Internet Akamai, Hàn Quốc hiện là quốc gia có tốc độ kết nối Internet nhanh nhất thế giới, vượt trên cả Nhật Bản và Mỹ.
Đặc biệt, Chính phủ Hàn Quốc khuyến khích xây dựng mối quan hệ hợp tác gắn kết giữa khu vực tư nhân được Chính phủ hậu thuẫn với khu vực công trong xây dựng hạ tầng mạng Internet; đồng thời, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích đổi mới sáng tạo của khu vực tư nhân thông qua các chính sách điều tiết nhất quán, giảm trở ngại đối với các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) mới.
Ngay từ năm 1999, Chính phủ đã cho phép chữ ký điện tử được sử dụng làm bằng chứng trong các vấn đề pháp lý; đồng bộ các quy định liên quan đến bảo vệ thông tin cá nhân và hướng dẫn khu vực tư nhân sử dụng công nghệ mã hóa. Đến năm 2000, khoảng 15 tổ chức liên quan đến thương mại điện tử đã đưa vào vận hành Diễn đàn Thương mại Điện tử tích hợp nhằm thúc đẩy tiêu chuẩn hóa trong nước và quốc tế các nền tảng thương mại điện tử.
Ngân hàng điện tử (E-banking) cũng đã được giới thiệu tại Hàn Quốc từ năm 1999. Đến năm 2010, 42,3% người dùng Internet ở độ tuổi 12 trở lên đã sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử. Mức độ sử dụng bình quân cho ngân hàng Internet là 4,9 lần mỗi tháng. Hầu hết người dùng Internet Banking thông qua máy tính (96,2%), trong khi 9,2% sử dụng điện thoại di động. Năm 2015, thương mại điện tử đã chiếm trên 40% tất cả các giao dịch thương mại, trong đó, giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp chiếm hơn 90% và giao dịch giữa doanh nghiệp với Chính phủ chiếm gần 6%. Các ngân hàng thường tăng thêm 0,1 - 0,5% lãi suất huy động và giảm 0,5% điểm lãi suất cho vay đối với khách hàng đăng ký Internet Banking.
Giải trí điện tử, đặc biệt là ngành game online, đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế số của Hàn Quốc. Với hơn 15 triệu người đăng ký và khoảng 10 triệu người trưởng thành chơi game mỗi tháng, các nền tảng như Netmarble, Hangame và Pmang không chỉ thu hút lượng người dùng khổng lồ mà còn mang lại doanh thu lớn từ mô hình miễn phí - bán vật phẩm ảo. Việc Tòa án Tối cao Hàn Quốc công nhận tiền ảo là tài sản có thể quy đổi thành tiền thật và chịu thuế càng cho thấy tầm quan trọng của kinh tế số trong khuôn khổ pháp lý. Các doanh nghiệp như NHN, Nexon hay NCsoft đã góp phần đưa ngành công nghiệp game trở thành một trụ cột tăng trưởng mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và mở rộng không gian số quốc gia.
3. Kinh nghiệm của Malaysia
Malaysia đang cho thấy cách tiếp cận toàn diện trong phát triển kinh tế số bằng việc đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng số và đào tạo nhân lực. Với tỷ lệ người dùng mạng di động lên tới 95,4% dân số vào năm 2016 và tốc độ 4G trung bình đạt 20 Mbps, quốc gia này đặt mục tiêu phổ cập mạng kỹ thuật số tốc độ cao trên toàn lãnh thổ. Đáng chú ý, Chính phủ Malaysia chủ động đầu tư hàng chục triệu USD cho các dự án thử nghiệm công nghệ 5G, thể hiện quyết tâm đi đầu trong chuyển đổi số. Việc thành lập lực lượng đặc nhiệm 5G Task Force trực thuộc Ủy ban Truyền thông Đa phương tiện Malaysia (MCMC) cho thấy nỗ lực xây dựng một chiến lược triển khai 5G toàn diện - từ hạ tầng, phân bổ phổ tần, đến khung pháp lý và bảo vệ người tiêu dùng - làm nền tảng cho hệ sinh thái số phát triển bền vững và bao trùm.
Malaysia cũng sớm triển khai các chiến dịch định hướng, đào tạo, cung cấp cho người dân nhận thức về tiềm năng cơ hội, kiến thức cơ bản trong nền kinh tế số. Trong đó, nổi bật là Chương trình đào tạo mang tên “eUsahawan” nhằm hỗ trợ những người kinh doanh trẻ ở khu vực nông thôn bổ sung, ứng dụng các kỹ năng về truyền thông, quảng cáo, tăng doanh số bán hàng và cải thiện thu nhập.
Đồng thời, với nền tảng “eRezeki”, Chính phủ Malaysia cũng tạo nhiều cơ hội việc làm cho tất cả người dân Malaysia, từ những người thợ sửa ống nước đến những người phụ nữ nội trợ. Thông qua đây, họ có thể đăng ký để trở thành những công nhân kỹ thuật số, làm những nhiệm vụ dựa trên các kỹ năng kỹ thuật số đơn giản và kiếm thêm thu nhập mà không cần phải ra khỏi nhà.
Từ năm 1996, Chính phủ Malaysia đã tiên phong với chương trình “MSC Malaysia” - một sáng kiến chiến lược nhằm phát triển hệ sinh thái công nghệ nội địa và thu hút đầu tư toàn cầu. Với gần 3.000 doanh nghiệp công nghệ tham gia, hoạt động trong các lĩnh vực then chốt như AI, dữ liệu lớn, IoT, BlockChain, Fintech…, MSC đã tạo ra hơn 114 tỷ USD doanh thu và gần 183.000 việc làm. Chính sách ưu đãi thuế mạnh tay (miễn 70 - 100% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 - 10 năm) cùng với việc phát triển các dự án trung tâm đổi mới như The Orbit, Cybercity hay MAC3 đã giúp hình thành một cộng đồng công nghệ năng động. MSC không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp mà còn khuyến khích sinh viên, chuyên gia và nhà sáng tạo cùng chia sẻ nguồn lực, hợp tác và thúc đẩy sáng tạo - một mô hình điển hình cho cách quốc gia kiến tạo nền tảng cho kinh tế số bền vững.
Bên cạnh đó, Malaysia còn xây dựng “Chương trình Doanh nhân Công nghệ Malaysia” (MTEP - Malaysia Tech Entrepreneur Programme) nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. MTEP có thể trao cơ hội cho những doanh nhân mong muốn xây dựng các dự án kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ bằng cách cấp thị thực 1 năm đối với người chưa có kinh nghiệm điều hành doanh nghiệp và 5 năm cho những người đã có kinh nghiệm.
Thực tiễn từ nhiều quốc gia cho thấy: Nâng cao nhận thức toàn xã hội về kinh tế số là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy chuyển đổi số bền vững. Cần đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền và tăng cường phối hợp giữa Chính phủ, doanh nghiệp, cơ sở giáo dục và báo chí trong việc phổ cập kiến thức số, từ lợi ích đến thách thức trong từng lĩnh vực cụ thể. Việc xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin, cập nhật chương trình đào tạo theo xu hướng công nghệ mới như IoT, AI, robot… sẽ giúp thế hệ trẻ sớm tiếp cận công nghệ số, đồng thời thúc đẩy mô hình liên kết đào tạo - thực hành giữa nhà trường và doanh nghiệp. Trọng tâm dài hạn là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo nền móng cho đội ngũ chuyên gia trong các lĩnh vực then chốt như thương mại điện tử, an ninh mạng và công nghệ thông tin – yếu tố quyết định sức cạnh tranh số quốc gia trong tương lai.
II. Thực tiễn bình dân học vụ xóa mù số ở Việt Nam
1. Sự ủng hộ của Đảng và Nhà nước
Việt Nam đang đứng trước một yêu cầu cấp thiết: Phổ cập chuyển đổi số cho toàn dân - hay nói cách khác là thực hiện một “phong trào bình dân học vụ số” ở quy mô quốc gia. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, trong đó nêu rõ: Thực hiện quyết liệt chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số, kích cầu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng quy mô lớn, thúc đẩy tiêu dùng nội địa, giải quyết việc làm. Theo đó, việc chuyển đổi số phải được diễn ra toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, y tế, quốc phòng - an ninh và đối ngoại.
Cụ thể hóa Đường lối Đại hội XIII của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó xác định một quan điểm rất cốt lõi, để đảm bảo thành công của Chương trình, đó là: Người dân là trung tâm của chuyển đổi số; vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số lớn mạnh để vươn ra thế giới; phấn đấu đến năm 2025, xếp hạng về Chính phủ điện tử của Việt Nam vào Top 50 thế giới; tỷ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình đạt 80%; số lượng giao dịch qua nền tảng, tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia đạt 860 triệu giao dịch; tỷ lệ cung cấp dữ liệu mở của cơ quan nhà nước đạt 100%.
Theo Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, việc phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc; phấn đấu đến năm 2030, quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP, tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; giao dịch không dùng tiền mặt đạt 80%. Tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần quan trọng xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, xã hội, con người Việt Nam, đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7. Đến năm 2045, Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP; là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Tỷ lệ doanh nghiệp công nghệ số tương đương các nước phát triển; tối thiểu có 10 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến. Thu hút thêm ít nhất 5 tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam. Đồng thời, Nghị quyết số 57-NQ/TW đã nhấn mạnh một trong các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số thời gian tới là triển khai sâu rộng phong trào “học tập số”, phổ cập, nâng cao kiến thức khoa học, công nghệ, kiến thức số trong cán bộ, công chức và Nhân dân; các phong trào khởi nghiệp, sáng tạo, cải tiến nâng cao hiệu quả công việc, năng suất lao động, khơi dậy tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, phát huy trí tuệ Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia…
Tiến trình chuyển đổi số của Việt Nam có thể được chia thành ba giai đoạn rõ nét: Năm 2020 là giai đoạn khởi động, hình thành nhận thức; năm 2021 đánh dấu bước chuyển sang triển khai và trải nghiệm, đặc biệt trong bối cảnh thích ứng với đại dịch. Từ năm 2022 trở đi, Việt Nam bước vào giai đoạn tăng tốc chuyển đổi số, với các hành động cụ thể theo từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương. Tư duy “lấy người dân làm trung tâm”, thực hiện “toàn dân, toàn diện” chính là định hướng xuyên suốt, bảo đảm chuyển đổi số không chỉ là tiến trình công nghệ, mà là quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội.
2. Thực tiễn và thách thức
Việt Nam hiện sở hữu lực lượng lao động trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thônglên tới gần 900.000 người, bao gồm một số lượng lớn kỹ sư được đào tạo chuyên sâu về trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), và khoa học dữ liệu. Tuy nhiên, theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn chỉ ở mức trung bình thấp, đặc biệt là về năng lực đổi mới sáng tạo và chuyên môn cao - những yếu tố then chốt để thúc đẩy nền kinh tế số. Tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật mới đạt khoảng 25%, thấp hơn so với yêu cầu đặt ra của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa chuỗi cung ứng, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao như sản xuất bán dẫn và chíp điện tử, Việt Nam đang đứng trước thời cơ chiến lược. Tuy nhiên, quốc gia vẫn cần hơn 50.000 lao động trình độ cao cho lĩnh vực này, trong khi các chương trình đào tạo chuyên biệt mới chỉ đang trong giai đoạn khởi động.
Ở khía cạnh công dân số, mặc dù Việt Nam có tỷ lệ người dân sử dụng Internet cao, nhưng mức độ tham gia vào các dịch vụ công trực tuyến còn rất hạn chế. Theo khảo sát do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam và Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông (IPS) phối hợp năm 2023, chỉ 3,05% người được hỏi đã từng tạo hồ sơ người dùng trên Cổng Dịch vụ công quốc gia và hơn 1% thực sự sử dụng dịch vụ này. Tỷ lệ hồ sơ nộp trực tuyến đạt 60%, nhưng chỉ 32% do người dân tự thực hiện, phần còn lại vẫn cần hỗ trợ của cán bộ công chức.
Các yếu tố kỹ thuật, quy trình và yếu tố con người vẫn là rào cản lớn. Nhiều cổng dịch vụ công cấp tỉnh không hỗ trợ tìm kiếm bằng giọng nói, hoặc không nhận diện được từ khóa bị viết sai - gây khó khăn đặc biệt cho nhóm người dân tộc thiểu số. Tại phần lớn địa phương, người dân vẫn phải thực hiện thủ tục hành chính theo cách truyền thống, thông qua tiếp xúc trực tiếp và hồ sơ giấy tờ.
Về điều kiện tiếp cận dịch vụ số, người dân phải hội tụ đủ ba yếu tố: Thiết bị thông minh, kết nối Internet ổn định và kỹ năng sử dụng công nghệ. Đây là những yêu cầu cơ bản để hình thành công dân số - chủ thể trung tâm của nền kinh tế số.
Một điểm sáng đã được thực hiện trong thực tiễn là mô hình Tổ công nghệ số cộng đồng - sáng kiến của Bộ Thông tin và Truyền thông. Tính đến tháng 5/2022, cả nước đã thành lập 9.388 tổ công nghệ số cộng đồng với hơn 44.500 thành viên. Những tổ này đóng vai trò là “cánh tay nối dài” của Ban chỉ đạo chuyển đổi số tại địa phương, giúp hướng dẫn người dân cài đặt, sử dụng dịch vụ công trực tuyến, cũng như kết nối các phản hồi từ cơ sở đến chính quyền. Các địa phương như Lạng Sơn và Hưng Yên đã triển khai 100% tổ công nghệ số đến cấp xã - cho thấy tiềm năng lan tỏa mạnh mẽ của mô hình này.
3. Giải pháp
Trước thực tiễn nêu trên, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để đảm bảo rằng nền tảng chuyển đổi số được xây dựng dựa trên cả ba trụ cột: Hạ tầng, thể chế và con người. Trước hết, cần xem giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực số là nhiệm vụ chiến lược. Việc đa dạng hóa các phương thức đào tạo, tích hợp kỹ năng số ngay từ bậc phổ thông, mở rộng các mô hình học tập linh hoạt, học tập suốt đời sẽ giúp hình thành thế hệ công dân số tự chủ, cập nhật nhanh với xu thế công nghệ mới.
Đáng chú ý, đề xuất tổ chức một phong trào “Bình dân học vụ số” cấp quốc gia mang tính khả thi và cần thiết. Đây sẽ là nỗ lực toàn diện nhằm phổ cập kỹ năng số cơ bản, danh tính số, cũng như kiến thức về an toàn - an ninh mạng cho toàn dân. Phong trào này cần được cụ thể hóa thành các chương trình mục tiêu có quy mô quốc gia, với lộ trình, đối tượng, nguồn lực và kết quả đo lường rõ ràng.
Bên cạnh đó, cần ưu tiên xây dựng các điểm truy cập Internet miễn phí tại khu vực khó khăn, giúp người dân có cơ hội tiếp cận không gian số một cách công bằng. Việc xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin, khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức tham gia đào tạo kỹ năng số, cũng là yếu tố thúc đẩy nhanh quá trình số hóa dân cư và lực lượng lao động.
Cuối cùng, để chuyển đổi số trở thành động lực then chốt thúc đẩy kinh tế số, các cấp chính quyền cần đi đầu trong đổi mới thể chế, tinh giản thủ tục hành chính và phát triển mạnh hạ tầng số, nền tảng số, đồng thời kiên trì triển khai các chính sách phát triển doanh nghiệp công nghệ và đổi mới sáng tạo theo định hướng Chính phủ đã đề ra.
Có thể nói, phong trào “Bình dân học vụ số” cần được triển khai như một chiến lược trọng tâm để phổ cập tri thức số, trang bị kỹ năng cơ bản về chuyển đổi số cho toàn dân - tương tự như vai trò lịch sử của phong trào xóa mù chữ trong những năm đầu độc lập. Đây không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước mà là công việc chung của toàn xã hội, trong đó mỗi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đều có thể đóng góp và cùng hưởng lợi.
Chính phủ giữ vai trò kiến tạo, dẫn dắt và hỗ trợ, trong khi các doanh nghiệp và tổ chức xã hội có thể tham gia cung cấp nền tảng, công cụ và nguồn lực đào tạo. Khi người dân hiểu, làm chủ công nghệ và trở thành công dân số, không chỉ nâng cao chất lượng sống và hiệu quả tương tác với chính quyền, mà còn tạo điều kiện để doanh nghiệp mở rộng thị trường, phát triển dịch vụ và nâng cao khả năng cạnh tranh. Sự lan tỏa của tri thức số đến từng người dân sẽ là nền tảng vững chắc để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số toàn diện, bền vững và mang lại lợi ích thiết thực cho cả quốc gia, doanh nghiệp và cộng đồng.
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ Chí Minh. (2011). Hồ Chí Minh toàn tập (Tập 4 & Tập 10). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
2. Lê Mậu Hãn (Chủ biên). (2006). Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945 -2005 (Tập 1). Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin.
3. Tạp chí Lịch sử Đảng. Phong trào Bình dân học vụ 1945 - 1946. https://tapchilichsudang.vn/phong-trao-binh-dan-hoc-vu-1945-1946.html
4. Tạp chí Công Thương. Kinh nghiệm quốc tế về phát triển nền kinh tế số và hàm ý chính sách cho Việt Nam. https://tapchicongthuong.vn/kinh-nghiem-quoc-te-ve-phat-trien-nen-kinh-te-so-va-ham-y-chinh-sach-cho-viet-nam-74202.htm
5. Bộ Thông tin và Truyền thông. Thúc đẩy phổ cập hiểu biết số tại Ấn Độ. https://mic.gov.vn/thuc-day-pho-cap-hieu-biet-so-tai-an-do-197157305.htm
6. Tư liệu Văn kiện Đảng. Kỷ niệm 58 năm ngày Bình dân học vụ (08/9/1945 - 08/9/2003): Nhớ lời Bác - Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/ky-niem-58-nam-ngay-binh-dan-hoc-vu-8-9-1945-8-9-2003-nho-loi-bac-mot-dan-toc-dot-la-mot-dan-toc-yeu-2174.
TS. Nguyễn Minh Phong
ThS. Nguyễn Trần Minh Trí