1
a) Tên Đề tài: Ảnh hưởng của cú sốc giá dầu đến nền kinh tế và vai trò của chính sách tiền tệ
Mã số: ĐTNH.003/21
b) Tổ chức chủ trì thực hiện: Trường Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh.
c) Chủ nhiệm và người tham gia chính:
- Chủ nhiệm: TS. Phạm Thị Tuyết Trinh - Phó Trưởng Khoa Kinh tế quốc tế, Trường Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh.
- Thư ký: ThS. Lê Phan Ái Nhân - Giảng viên, Trường Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh.
- Thành viên tham gia:
d) Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Cơ sở lý thuyết về cú sốc giá dầu, ảnh hưởng của cú sốc giá đầu đến nền kinh tế và phản ứng của chính sách tiền tệ.
- Các cú sốc giá dầu và kinh tế Việt Nam.
- Ảnh hưởng của cú sốc giá dầu đến các biến số vĩ mô của Việt Nam và phản ứng của chính sách tiền tệ.
- Kết luận của nghiên cứu và các khuyến nghị chính sách trên 3 khía cạnh, điều hành giá xăng dầu, ảnh hưởng của nền kinh tế thực và điều hành CSTT với cú sốc giá dầu thế giới.
đ) Thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc:
- Thời gian bắt đầu: Tháng 6/2021
- Thời gian kết thúc: Tháng 10/2022
e) Kinh phí thực hiện: 200 triệu đồng.
g) Kết quả thực hiện: Khá
h) Mô tả tóm tắt:
Nhằm mục tiêu nghiên cứu, làm sáng tỏ ảnh hưởng của cú sốc giá dầu đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế và phản ứng của CSTT với cú sốc giá dầu, đưa ra những nhận định về sự phù hợp của phản ứng CSTT với cú sốc giá dầu và các hàm ý chính sách cho điều hành tiền tệ ở Việt Nam, đề tài ĐTNH.003/21 đã triển khai các nội dung nghiên cứu cụ thể sau:
Chương 1 hệ thống hoá cơ sở lý thuyết về cú sốc giá dầu, ảnh hưởng của cú sốc giá đầu đến nền kinh tế và phản ứng của chính sách tiền tệ, cụ thể gồm: Khái niệm, cách đo lường, ảnh hưởng của cú sốc giá dầu đến sản lượng, giá cả; Các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của cú sốc giá dầu đến nền kinh tế và phản ứng của chính sách tiền tệ với cú sốc giá dầu. Từ kết quả thực nghiệm, nhóm nghiên cứu cho rằng đến thời điểm hiện nay, các nhà nghiên cứu khá thống nhất về tác động của cú sốc tăng giá dầu đến nền kinh tế nhưng vẫn còn nhiều tranh cãi về vai trò của NHTW như một nhân tố quyết định tác động của cú sốc này. Dù vậy, các nghiên cứu vẫn cho rằng NHTW có thể tác động để làm giảm ảnh hưởng của tác động cú sốc giá dầu, và thông thường, giữa hai mục tiêu chính sách là giá cả và sản lượng, các NHTW có xu hướng lựa chọn ổn định giá cả.
Tại Chương 2, các tác giả phân tích tác động của các cú sốc giá dầu và kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2000-2021; diễn biến giá dầu Việt Nam và giá dầu thế giới; tương quan giá dầu và tăng trưởng, lạm phát Việt Nam; Các động thái của điều hành CSTT Việt Nam trong các cú sốc giá dầu và xem xét mối tương quan giữa cú sốc giá dầu và hoạt động kinh doanh tiền tệ của NHTM. Kết quả phân tích cho thấy trong giai đoạn nghiên cứu, giá dầu trong nước bám sát giá dầu thế giới, phản ánh cho tình trạng phụ thuộc dầu nhập khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, do có can thiệp của Nhà nước, giá dầu trong nước có diễn biến chậm hơn và mức biến động tăng nhỏ hơn so với giá thế giới. Lạm phát có tương quan cùng chiều với các cú sốc giá dầu trong khi mối quan hệ giữa các cú sốc giá dầu với tăng trưởng lại không rõ ràng. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy thâm dụng dầu trong sản xuất của Việt Nam ngày càng giảm.
Tại Chương 3, các tác giả tập trung phân tích định lượng ảnh hưởng của cú sốc giá dầu đến các biến số vĩ mô của Việt Nam và phản ứng của chính sách tiền tệ thông qua việc sử dụng mô hình SVAR phân tích cho dữ liệu tần suất tháng. Kết quả nghiên cứu dữ liệu cho thấy các cú sốc tăng giá dầu gây ra áp lực lạm phát nhưng đồng thời cũng ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng sản xuất công nghiệp do hệ quả của tăng tổng cầu toàn cầu. Trong khi đó cú sốc giá dầu giảm không cho thấy những ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến nền kinh tế. Kết quả này phần nào cho thấy phản ứng bất đối xứng của nền kinh tế với cú sốc giá dầu. CSTT Việt Nam đã phản ứng với các cú sốc tăng giá dầu theo hướng thắt chặt để kiểm soát lạm phát tương tự như sự lựa chọn của nhiều nền kinh tế. Tuy nhiên, CSTT không luôn luôn phản ứng với các cú sốc tăng giá dầu theo cách này mà chỉ phản ứng khi cú sốc tăng giá dầu gây ra áp lực lạm phát cao trong nền kinh tế. Ngược lại, khi xảy ra các cú sốc giảm giá dầu, CSTT hoàn toàn không phản ứng mà nguyên nhân là do các mục tiêu chính sách không chịu áp lực với cú sốc giá dầu theo chiều hướng này. Điều này cho thấy rằng CSTT đặt trọng số lớn vào diễn biến lạm phát và chỉ phản ứng khi xảy ra các áp lực đối với mục tiêu này.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tại các chương 1,2,3, nhóm tác giả đưa ra một số kết luận về kết quả nghiên cứu và một số khuyến nghị về giảm dần sự phụ thuộc của nền kinh tế vào năng lượng từ dầu, về kiểm soát ảnh hưởng của cú sốc giá dầu đến lạm phát và sản lượng trong nước từ khía cạnh kinh tế thực và khuyến nghị về chính sách tiền tệ./.