1
a) Tên Đề tài: Xây dựng bộ chỉ số định lượng mối liên kết giữa thị trường vốn Việt Nam với thị trường vốn các nước trong khu vực và trên thế giới
Mã số: ĐTNH.004/21
b) Tổ chức chủ trì thực hiện: Trường Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh.
c) Chủ nhiệm và người tham gia chính:
- Chủ nhiệm: TS. Dương Thị Thùy An - Trưởng bộ môn, Khoa Tài chính, Trường Đại học Ngân hàng Tp.Hồ Chí Minh.
- Thư ký: TS.Nguyễn Thị Như Quỳnh - Giảng viên, Trường Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh.
- Thành viên tham gia:
d) Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Cơ sở lý luận về hội nhập tài chính và đo lường hội nhập tài chính giữa các quốc gia.
- Hội nhập tài chính Việt Nam và các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
- Mô hình định lượng hội nhập tài chính và kết quả mô hình.
- Thảo luận kết quả mô hình và khuyến nghị.
đ) Thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc:
- Thời gian bắt đầu: Tháng 6/2021
- Thời gian kết thúc: Tháng 01/2023
e) Kinh phí thực hiện: 230 triệu đồng
g) Kết quả thực hiện: Khá
h) Mô tả tóm tắt:
Nhằm mục tiêu đánh giá mối liên kết giữa thị trường vốn Việt Nam và các thị trường vốn lớn trong khu vực và trên thế giới trong giai đoạn 2006-2021, đề tài ĐTNH.004/21 đã triển khai các nội dung nghiên cứu cụ thể sau:
Chương 1 nghiên cứu cơ sở lý luận về hội nhập tài chính và đo lường hội nhập tài chính giữa các quốc gia, bao gồm: định nghĩa, đặc điểm, ý nghĩa, một số lý thuyết liên quan đến hội nhập tài chính; Các cách tiếp cận định lượng và các chỉ số định lượng hội nhập tài chính.
Chương 2 nghiên cứu về chủ trương, định hướng hội nhập tài chính của Việt Nam, các thỏa thuận song phương và đa phương, các cải cách thể chế đáp ứng nhu cầu hội nhập tài chính của Việt Nam cũng như các cam kết của Việt Nam liên quan đến hội nhập tài chính và các quan hệ tài chính của Việt Nam. Chương 2 cũng đánh giá tác động của hội nhập tài chính theo cả hai giác độ cơ hội và thách thức. Từ kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả cho rằng hội nhập tài chính giúp đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam, buộc các doanh nghiệp trong nước phải đổi mới, tái cấu trúc, áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về quản trị công ty, quản trị rủi ro, công bố thông tin…để hoạt động có hiệu quả hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như mở ra cơ hội cho Việt Nam về thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh ngày càng lớn trên cả 3 cấp độ khi mở cửa thị trường: (i) cạnh tranh giữa sản phẩm trong nước và sản phẩm nước ngoài; (ii) cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài; (iii) cạnh tranh giữa các chính phủ về thể chế và môi trường kinh doanh. Đồng thời, việc mở cửa thị trường tài chính trong nước với các thị trường tài chính khu vực và quốc tế, sự luân chuyển của dòng vốn ra/vào sẽ làm cho thị trường tài chính trong nước trở nên nhạy cảm và dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, tạo sức ép đối với các nhà quản lý để đảm bảo sự phát triển lành mạnh và hiệu quả của thị trường. Đặc biệt, do thị trường tài chính Việt Nam mới ở giai đoạn phát triển ban đầu, có những dịch vụ Việt Nam chưa tiếp cận bao giờ và chưa thể lường trước được những tác động, ảnh hưởng của các dịch vụ đó đến thị trường tài chính.
Tại Chương 3 và Chương 4, nhóm tác giả đã lựa chọn mô hình và dữ liệu phù hợp, thực hiện ước lượng 04 chỉ số, gồm (i) chỉ số tương quan biến động giá trong mô hình GARCH-DCC; (ii) chỉ số tương quan trạn thái trong mô hình Markov Regime switching Autoregressive; (iii) chỉ số hội tụ giá trong mô hình hội tụ Beta và (iv) Chỉ số hội tụ suất sinh lời trong mô hình hội tụ Sigma. Trên cơ sở kết quả ước lượng, nhóm tác giả đưa ra nhận định và khuyến nghị chính sách nhằm tăng cường hội nhập tài chính, tranh thủ được cơ hội và giảm thiểu rủi ro trong hội nhập.