1
a) Tên Đề tài: Đánh giá khía cạnh pháp lý của các cam kết đầu tư liên quan đến lĩnh vực ngân hàng và khuyến nghị chính sách
Mã số: ĐTNH.006/21
b) Tổ chức chủ trì thực hiện: Vụ Pháp chế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
c) Chủ nhiệm và người tham gia chính:
- Chủ nhiệm: ThS. Tạ Quang Đôn - Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Thư ký: CN. Đào Trần Thùy An - Chuyên viên, Vụ Pháp chế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Thành viên tham gia:
d) Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Các nghĩa vụ về bảo hộ đầu tư tại các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư;
- Các cam kết về đầu tư đối với dịch vụ tài chính, ngân hàng tại một số FTA của Việt Nam;
- Khoản đầu tư được bảo hộ, khái niệm “biện pháp” và chủ thể có hành động có thể bị quy kết trách nhiệm của nhà nước – theo quy định tại các FTA Việt Nam và pháp luật trong nước;
- Khuyến nghị chính sách.
đ) Thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc:
- Thời gian bắt đầu: Tháng 6/2021
- Thời gian kết thúc: Tháng 12/2022
e) Kinh phí thực hiện: 230 triệu đồng.
g) Kết quả thực hiện: Giỏi
h) Mô tả tóm tắt:
Nhằm mục tiêu tổng hợp, phân tích các nội dung liên quan đến bảo hộ đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng, nhận diện các biện pháp và thực thể của Việt Nam mà nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng có thể khởi kiện để đưa ra một số khuyến nghị hạn chế việc phát sinh các vụ việc tranh chấp đầu tư quốc tế, Đề tài ĐTNH.006/21 được cấu trúc thành 5 Chương. Cụ thể, Chương 1 giải quyết vấn đề khái quát chung, bao gồm nhận diện các câu hỏi nghiên cứu, phương pháp luận và phạm vi nghiên cứu. Chương 2 tập hợp cách diễn giải quy định về đối xử đối với khoản đầu tư/nhà đầu tư, nghĩa vụ tối huệ quốc, nghĩa vụ đối xử quốc gia và biện pháp quốc hữu hóa – là những điều khoản then chốt tại các Hiệp định Bảo hộ đầu tư; Chương 3, 4, 5 giải quyết các vấn đề cụ thể của Việt Nam tại các FTA, nhận diện khoản đầu tư được bảo hộ, các biện pháp có khả năng bị khởi kiện, và các cơ quan có liên quan cũng như đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam để phòng ngừa, giảm thiểu tranh chấp đầu tư quốc tế trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Các nội dung nghiên cứu cụ thể như sau:
Đối với các nghĩa vụ về bảo hộ đầu tư tại các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, nhóm nghiên cứu tập trung giải thích, diễn giải nội hàm và bản chất của 4 nghĩa vụ bảo hộ đầu tư nổi bật mà quốc gia tiếp nhận đầu tư phải tuân thủ tại một số Hiệp định về Bảo hộ đầu tư/Chương Đầu tư của FTA, gồm: (i) nghĩa vụ đối xử đối với khoản đầu tư/nhà đầu tư; (ii) biện pháp quốc hữu hóa gián tiếp; (iii) nguyên tắc đối xử quốc gia và (iv) nguyên tắc tối huệ quốc. Đây cũng là 4 nghĩa vụ chủ yếu của các quốc gia khi bị nhà đầu tư cáo buộc vi phạm trong các tranh chấp đầu tư quốc tế. Tùy thuộc vào nội dung vụ việc, nhà đầu tư có thể báo buộc nhà nước vi phạm một hoặc nhiều hơn các nghĩa vụ trong 4 nghĩa vụ nêu trên.
Từ kết quả nghiên cứu tại Chương 2, Nhóm nghiên cứu cho rằng mặc dù không có một định nghĩa hay một công thức chung nào được đưa ra để có thể áp dụng thống nhất ở tất cả các Hiệp định nhưng có một số “dấu hiệu” nhận biết của các nghĩa vụ đó. Trên thực tế, tùy sự kiện pháp lý cụ thể cũng như lời văn của Hiệp định được áp dụng, thậm chí là tùy thuộc vào cách tiếp cận, quan điểm của Hội đồng trọng tài, các nghĩa vụ của Việt Nam tại các Hiệp định có liên quan sẽ được đánh giá và nhìn nhận tương ứng với cam kết tại Hiệp định đó. Trên thực tế, khó có thể dự đoán hoàn toàn nhưng cơ quan quản lý cần nắm được các cách diễn giải cơ bản của Hiệp định để chủ động phòng, ngừa việc phát sinh các vụ việc tranh chấp đầu tư quốc tế trong quá trình thực hiện công tác quản lý của mình.
Về nội dung cam kết về đầu tư đối với dịch vụ tài chính, ngân hàng tại một số FTA của Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã tổng hợp một số nghĩa vụ mà nhà đầu tư nước ngoài có thể khởi kiện Việt Nam, tập trung làm rõ hơn các cam kết về đầu tư của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ (chính là cam kết áp dụng cho lĩnh vực tài chính, ngân hàng) đối với 4 nghĩa vụ quan trọng (gồm đối xử công bằng, thỏa đáng/quốc hữu hóa/nguyên tắc đối xử quốc gia và nguyên tắc tối huệ quốc) tại 04 FTA nổi bật là Hiệp định Thương mại tự do CPTPP, VEAUFTA, VKFTA và AANZFTA. Đồng thời, nhóm nghiên cứu cũng lựa chọn trình bày thêm một số các cam kết nổi bật của lĩnh vực tài chính, ngân hàng trong các hiệp định FTA thế hệ mới để nhìn nhận tổng quan hơn về các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, các cam kết này sẽ là cơ sở cho việc bảo hộ đầu tư đối với lĩnh vực tương ứng (như cam kết về dịch vụ tài chính mới, cam kết về thanh toán thẻ xuyên biên giới tại CPTPP, cam kết mở rộng vốn sở hữu nước ngoài tại ngân hàng thương mại tại EVFTA).
Về các khoản đầu tư được bảo hộ, khái niệm “biện pháp” và chủ thể có hành động có thể bị quy kết trách nhiệm của nhà nước - theo quy định tại các FTA Việt Nam và pháp luật trong nước, nhóm nghiên cứu tập trung phân tích về định nghĩa của “khoản đầu tư được bảo hộ” tại Chương Đầu tư của các FTA Việt Nam; khái niệm “biện pháp”; việc ban hành khuôn khổ pháp lý nhằm nội luật hóa một số cam kết liên quan đến tiêu chuẩn đối xử đối với khoản đầu tư, nội luật hóa các vấn đề liên quan đến quốc hữu hóa; phân tích về chủ thể có hành động có thể bị quy kết trách nhiệm của nhà nước như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các doanh nghiệp nhà nước hay Tòa án nhân dân các cấp.
Trên cơ sở phân tích các nội dung liên quan đến bảo hộ đầu tư, nhận diện các biện pháp và thực thể của Việt Nam mà nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng có thể khởi kiện, nhóm nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị chính sách đổi với việc rà soát và sửa đổi khuôn khổ pháp lý; rà soát và sửa đổi Hiệp định Bảo hộ Đầu tư song phương/đa phương và Chương Đầu tư tại các FTA (nếu cần thiết); tăng cường nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước; nâng cao hiểu biết của các cơ quan, định chế tài chính liên quan đến rủi ro tranh chấp, thiệt hại cũng như tăng cường huy động sự tham gia của các giáo sư, học giả thuộc lĩnh vực luật đầu tư quốc tế./.