a) Tên Đề tài: Quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng số - thực tiễn, kinh nghiệm quốc tế và giải pháp đối với Việt Nam
Mã số: ĐTNH.009/21
b) Tổ chức chủ trì thực hiện: Vụ Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
c) Chủ nhiệm và người tham gia chính:
- Chủ nhiệm: ThS. Lê Anh Dũng - Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Thư ký: ThS. Nguyễn Thùy Anh - Phó Trưởng phòng, Vụ Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Thành viên tham gia:
d) Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Tổng quan về ngân hàng số;
- Thực trạng hoạt động ngân hàng số tại Việt Nam;
- Khuôn khổ pháp lý, quy định quản lý về hoạt động ngân hàng số tại một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam;
- Đề xuất cơ chế chính sách quản lý, giám sát hoạt động ngân hàng số tại Việt Nam.
đ) Thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc:
- Thời gian bắt đầu: Tháng 6/2021
- Thời gian kết thúc: Tháng 01/2023
e) Kinh phí thực hiện: 250 triệu đồng.
g) Kết quả thực hiện: Giỏi
h) Mô tả tóm tắt:
Nhằm mục tiêu nghiên cứu lý luận tổng quan về ngân hàng số, kinh nghiệm quốc tế, thực trạng và xu hướng phát triển hoạt động ngân hàng số để đưa ra các đề xuất quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng số tại Việt Nam, đề tài ĐTNH.009/21 đã triển khai các nội dung nghiên cứu cụ thể như sau:
Chương 1 nghiên cứu tổng quan về ngân hàng số, gồm: khái niệm, xu hướng phát triển, các mô hình, đặc điểm của ngân hàng số và một số thách thức, yêu cầu đặt ra trong quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng số. Tại Chương này, trên cơ sở đặc điểm và sự khác biệt giữa ngân hàng truyền thống và ngân hàng số về một số tiêu chí như: Giấy phép hoạt động; Chiến lược; Địa điểm/thời gian/phương thức/chi phí giao dịch; Trải nghiệm khách hàng; Khả năng tìm kiếm khách hàng; Sản phẩm/Dịch vụ… nhóm tác giả rút ra một số yêu cầu đặt ra trong quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng số như: cần phải cân bằng giữa ổn định tài chính, toàn vẹn thị trường với thúc đẩy đổi mới sáng tạo; cần đảm bảo cạnh tranh công bằng trên thị trường tài chính; cần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tài chính trong kỷ nguyên số và đảm bảo an ninh mạng/đảm bảo riêng tư dữ liệu người dùng…
Chương 2 nghiên cứu thực tiễn triển khai chuyển đổi số ngân hàng và xu hướng phát triển mô hình ngân hàng số tại Việt Nam; phân tích cơ chế, chính sách, quy định pháp lý hiện hành về hoạt động ngân hàng số; những thuận lợi, khó khăn trong phát triển ngân hàng số và yêu cầu quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng số tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu chương 2 cho thấy xu hướng phát triển hoạt động ngân hàng số tại Việt Nam ngày một rõ ràng, các NHTM đã tích cực ứng dụng các công nghệ mới. Kết quả khảo sát năm 2020 của NHNN cho thấy, hơn 10% các ngân hàng có tỷ lệ khách hàng sử dụng kênh số đạt trên 80%; nhiều nghiệp vụ đã được số hóa hoàn toàn (như gửi tiết kiệm; tiền gửi có kỳ hạn; mở và sử dụng tài khoản thanh toán; thẻ ngân hàng; ví điện tử; chuyển tiền; quản lý nhân sự; kế toán - tài chính...). Khuôn khổ pháp lý về cấp phép, thành lập và hoạt động vẫn đang áp dụng chung đối với cả ngân hàng truyền thống và ngân hàng số. Một số cơ chế, chính sách, quy định thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo thuận lợi cho ứng dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng, thúc đẩy chuyển đổi số ngành ngân hàng đã được ban hành, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng xu hướng số hóa dịch vụ, ứng dụng kỹ thuật số trong hoạt động ngân hàng và sự xuất hiện của các mô hình kinh doanh mới.
Chương 3 phân tích khuôn khổ pháp lý, quy định quản lý về cấp phép, quản lý, giám sát ngân hàng số; thực tiễn, khung khổ cấp phép ngân hàng số và một số sáng kiến tạo thuận lợi cho hoạt động ngân hàng số tại một số quốc gia trên thế giới, qua đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về cách tiếp cận/thiết kế quy định pháp luật, ứng xử chính sách đối với cấp phép, quản lý, giám sát các mô hình ngân hàng số cũng như cách thức phát triển, hoàn thiện cơ chế chính sách, quy định pháp lý nhằm thúc đẩy, tạo thuận lợi hoạt động ngân hàng số. Trong đó, nhóm tác giả đặc biệt nhấn mạnh việc ban hành khung khổ pháp lý riêng về cấp phép ngân hàng số (licensing framework), thiết lập khuôn khổ an ninh mạng, hoàn thiện pháp luật về quyền được bảo vệ bí mật dữ liệu cá nhân.
Tại chương 4, nhóm nghiên cứu tập trung đưa ra đề xuất về ứng xử chính sách của Việt Nam đối với cấp phép, quản lý các mô hình ngân hàng số; về rà soát, bổ sung, chỉnh sửa quy định thanh tra, giám sát đối với hoạt động ngân hàng số; về cơ chế chính sách tạo thuận lợi ứng dụng công nghệ nhằm cải tiến quy trình, nghiệp vụ ngân hàng số và gia tăng trải nghiệm khách hàng; về rà soát quy định pháp lý tạo điều kiện triển khai sáng kiến Ngân hàng mở (Open Banking); về nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật trong hoạt động ngân hàng số.
Đồng thời, để thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số, phát triển ngân hàng số, nhóm nghiên cứu đề xuất Chính phủ sớm cụ thể hóa tại các văn bản quy phạm pháp luật các nội dung về: quản lý, giám sát các mô hình ngân hàng số trực thuộc ngân hàng hiện hữu và mô hình/nền tảng ngân hàng số dựa trên hợp tác giữa ngân hàng và công ty Fintech; cơ chế quản lý, khuyến khích ngành ngân hàng thử nghiệm, thí điểm, đổi mới sáng tạo trên tinh thần chấp nhận rủi ro trong quá trình chuyển đổi số, phát triển ngân hàng số; hướng dẫn kết nối, khai thác dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu Căn cước công dân để phục vụ việc xác minh thông tin khách hàng… Với NHNN, nhóm nghiên cứu đề xuất về việc nghiên cứu, tham mưu ứng xử chính sách phù hợp đối với việc phát triển các mô hình ngân hàng số tại Việt Nam theo lộ trình 2022-2025 và 2025-2030; rà soát, bổ sung, chỉnh sửa quy định về thanh tra, giám sát đối với mô hình/nền tảng cung ứng dịch vụ ngân hàng số hợp tác giữa ngân hàng và công ty Fintech; đổi mới cơ chế thanh tra, giám sát của NHNN đối với các TCTD, đặc biệt các tổ chức phi ngân hàng tham gia cung ứng dịch vụ ngân hàng; hoàn thiện cơ chế chính sách, khung khổ pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động chuyển đổi số và phát triển hoạt động ngân hàng số; phối hợp với các Bộ, ngành liên quan đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật liên quan, như Luật Giao dịch điện tử, quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, cơ chế kết nối, khai thác, chia sẻ dữ liệu với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong hoạt động ngân hàng… Các TCTD cũng cần xây dựng và triển khai Kế hoạch/Chiến lược chuyển đổi số, trong đó chú trọng cải tiến quy trình, nghiệp vụ, phát triển dịch vụ ngân hàng số; nâng cấp cơ sở dữ liệu tập trung, đẩy mạnh việc thu thập, làm sạch, phân tích dữ liệu; áp dụng những giải pháp, công nghệ tiên tiến và các tiêu chuẩn quốc tế về nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số cho cung ứng dịch vụ ngân hàng số; đảm bảo an ninh, an toàn bảo mật cho hệ thống công nghệ thông tin, thường xuyên rà soát, đánh giá rủi ro để có phương án phòng bị và ứng phó kịp thời; có chính sách ưu đãi nhân lực chất lượng cao về công nghệ thông tin và kỹ năng về chuyển đổi số./.