Tiếp cận tài chính toàn diện của các nước ASEAN và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
ThS. Lê Thị Khuyên, ThS. Bùi Ngọc Mai Phương1
Bài viết tập trung nghiên cứu tài chính toàn diện ở phạm vi quốc gia với bộ dữ liệu bao gồm các chỉ tiêu đo lường tài chính toàn diện của 10 nước trong khu vực ASEAN; và nhận thấy vị thế cũng như mức độ tài chính toàn diện ở Việt Nam còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Từ đó, bài viết tiếp tục tìm hiểu một số hạn chế đằng sau diễn biến của thực trạng này tại Việt Nam song song với việc nghiên cứu kinh nghiệm triển khai thành công tài chính toàn diện của 4 nước tiêu biểu trong khu vực để khuyến nghị một số chính sách tập trung vào hoàn thiện khung pháp lý cũng như hệ thống chính sách cho việc thực hiện tài chính toàn diện tại Việt Nam ở cấp độ Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tài chính trong thời gian tới.
Đặt vấn đề
Sự quan tâm đến vấn đề tiếp cận tài chính ngày càng nhiều cho thấy tầm quan trọng của tài chính toàn diện đối với phát triển kinh tế và xã hội. Việc tiếp cận các dịch vụ tài chính đóng một vai trò rất lớn trong việc giảm nghèo, nâng cao năng lực sản xuất xã hội cũng như thúc đẩy phát triển bền vững. Ở cấp quốc gia, khoảng hai phần ba các cơ quan quản lý và giám sát hiện nay chịu trách nhiệm về việc tăng cường tiếp cận tài chính toàn diện. Trong những năm gần đây, có 50 quốc gia đã đặt mục tiêu chính thức về việc phát triển tài chính toàn diện (World Bank, 2014). Thành lập vào năm 2015 với mục tiêu hình thành một khu vực tự do hóa tài chính, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vẫn còn nhiều hạn chế trong vấn đề tài chính toàn diện trong khu vực. Để hiểu hơn về những nỗ lực của ASEAN trong việc phổ cập và mở rộng các dịch vụ tài chính, bài viết này tập trung nghiên cứu và phân tích các chỉ số đo lường mức độ tài chính toàn diện của các nền kinh tế; từ đó xem xét kinh nghiệm 10 nước trong khối và đưa ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Cấu trúc của bài viết gồm 5 nội dung chính như sau: phần 1 tiếp cận khái niệm và đo lường chỉ tiêu tài chính toàn diện; phần 2 mô tả và đánh giá thực trạng mức độ phát triển tài chính toàn diện ở các nước khu vực ASEAN trong đó có Việt Nam; phần 3 sẽ đi vào tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước tiêu biểu thuộc ASEAN trong tiến trình triển khai tài chính toàn diện; phần 4 là các giải pháp phát triển tài chính toàn diện cho Việt Nam.
1. Khái niệm và đo lường tài chính toàn diện
Tiếp cận tài chính toàn diện (Financial Inclusion) là việc sử dụng các loại hình dịch vụ tài chính của các cá nhân và doanh nghiệp (Beck và cộng sự, 2007; Demirgüç-Kunt và Klapper, 2012). Hay nói cách khác là tỷ lệ các cá nhân và doanh nghiệp đang sở hữu tài khoản tại một tổ chức tài chính, sử dụng các dịch vụ tài chính như thanh toán, tiết kiệm, vay vốn hay mua hợp đồng bảo hiểm… cho các mục đích đầu tư vào giáo dục, kinh doanh hay bảo hiểm cho các rủi ro tài chính phát sinh để gia tăng khối tài sản và quản lý rủi ro tài chính tốt hơn (Asli Demirguc-Kunt và cộng sự, 2012). Các dịch vụ tài chính này phải được cung cấp bởi các tổ chức tài chính (TCTC) chính thức, là các công cụ tài chính an toàn và hiệu quả trong một môi trường pháp lý minh bạch.
Các chỉ tiêu đo lường việc sử dụng các dịch vụ tài chính được thu thập từ báo cáo về chỉ số tài chính toàn diện toàn cầu của Ngân hàng Thế giới (World Bank Financial Inclusion Database, 2015) và phân biệt dựa trên mức độ tiếp cận tài chính của cá nhân và doanh nghiệp.
Đối với khách hàng cá nhân, bài nghiên cứu tập trung vào tỷ lệ số người trưởng thành trên 15 tuổi tham gia vào khu vực tài chính chính thức (bao gồm: ngân hàng, hiệp hội tín dụng, TCTC vi mô hoặc TCTC khác). Theo Hanning và Jansen (2010) hay Demirgüç-Kunt và Klapper (2012), mức độ tài chính toàn diện được đánh giá bởi các chỉ tiêu về tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm, thanh toán. Đối với doanh nghiệp được xem là tiếp cận tài chính toàn diện khi các dịch vụ tài chính được sử dụng cho mục đích kinh doanh và được đo lường thông qua: tỷ lệ doanh nghiệp có tài khoản tiết kiệm, tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng ngân hàng để tài trợ cho đầu tư, tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng ngân hàng để tài trợ vốn lưu động.
Bài viết này chỉ đề cập và phân tích kỹ đến đối tượng khách hàng cá nhân được tiếp cận với các dịch vụ tài chính của các TCTC chính thức, để thấy được mức độ tiếp cận tài chính toàn diện trên góc độ toàn dân của các nước ASEAN.
2. Thực trạng tiếp cận tài chính toàn diện trong ASEAN
2.1. Điểm truy cập và mở tài khoản tại các TCTC
Theo báo cáo hội nhập ASEAN năm 2015, thị trường tài chính các nước ASEAN chủ yếu do các ngân hàng chi phối. Vì vậy, ngành Ngân hàng được xem là lĩnh vực quan trọng trong tiến trình tự do hóa dịch vụ tài chính của ASEAN.Việc triển khai các hoạt động và khung pháp lý nhằm tiếp cận tài chính toàn diện ở các nước trong khối ASEAN là khác nhau nên kết quả đạt được cho đến nay cũng rất khác nhau giữa các nền kinh tế. Tỷ lệ chi nhánh ngân hàng đối với tỷ lệ dân số khá cao ở Brunei, Indonesia, Thái Lan, nhưng tại Lào, Myanmar, Việt Nam lại thấp hơn nhiều so với trung bình của thế giới. Về tỷ lệ máy ATM so với dân số, Thái Lan, Brunei, Singapore, Indonesia và Malaysia có tỷ lệ dân số tiếp cận dịch vụ ATM tốt hơn so với Myanmar, Campuchia, Lào, Việt Nam, Philippines. Việt Nam đã có khoảng 24 máy ATM trên 100.000 người lớn vào năm 2014, thấp hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực.
Tài khoản của người trưởng thành tại một TCTC chính thức là chỉ số chính để đo lường mức độ tiếp cận tài chính. Dữ liệu cho thấy tỷ lệ dân số có tài khoản tại một TCTC ở Singapore, Malaysia và Thái Lan cao hơn mức trung bình của thế giới. Tài khoản của nữ giới và dân số với mức thu nhập dưới 40% ở mức cao hơn ở các nền kinh tế này. Trong khi đó, chưa đầy một phần ba người lớn ở Campuchia, Myanmar, Philippines, Việt Nam và Indonesia có tài khoản tại ngân hàng hoặc TCTC tính đến năm 2014. (Bảng 1)
Bảng 1. Điểm truy cập và tài khoản tại các TCTC
Số máy ATM (trên 100.000 người) |
Chi nhánh ngân hàng (trên 100.000 người) |
Tài khoản tại TCTC (%) |
Tài khoản tại TCTC (nữ, %) |
Tài khoản tại TCTC (40% người có thu nhập thấp nhất, %) |
|
Brunei |
77.14 |
20.30 |
|
|
|
Cambodia |
13.29 |
6.10 |
12.60 |
10.68 |
8.83 |
Indonesia |
53.31 |
17.80 |
35.90 |
37.24 |
21.94 |
Lao |
23.17 |
2.90 |
|
|
|
Malaysia |
51.12 |
10.70 |
80.70 |
78.09 |
75.57 |
Myanmar |
1.90 |
3.30 |
22.60 |
17.08 |
16.07 |
Philippines |
25.27 |
8.80 |
28.10 |
33.88 |
14.92 |
Singapore |
59.98 |
9.30 |
96.40 |
96.07 |
96.20 |
Thailand |
113.54 |
12.60 |
78.10 |
75.44 |
71.97 |
Vietnam |
24.01 |
3.80 |
30.90 |
31.86 |
18.74 |
Thế giới |
52.22 |
10.00 |
50.5 |
46.6 |
40.7 |
Nguồn: World Bank Financial Inclusion Database, 2015; World Bank, 2011.
2.2. Mức độ sử dụng tài khoản để nhận thanh toán và gửi tiết kiệm tại các TCTC
Việc sử dụng các tài khoản tại các TCTC để nhận khoản thanh toán của chính phủ cao ở Singapore và Malaysia so với trung bình thế giới, trong khi đó tỷ lệ này ở Campuchia, Myanmar và Việt Nam lại khá thấp. Về sử dụng tài khoản dùng để nhận tiền lương của Singapore và Malaysia cao hơn mức trung bình thế giới. Hơn 40% dân số ở Singapore, Thái Lan và Malaysia sử dụng các tài khoản để nhận tiền lương cao hơn so với mức trung bình của thế giới là 21%. Về các khoản tiền gửi tiết kiệm tại các TCTC, Indonesia cũng đứng trên mức trung bình thế giới bên cạnh Singapore, Thái Lan và Malaysia. Tỷ lệ tiết kiệm của phụ nữ tiết kiệm và nhóm thu nhập dưới 40% cũng cao ở các nền kinh tế này; tuy nhiên lại khá thấp ở Campuchia, Myanmar và Việt Nam. (Bảng 2)
Bảng 2. Sử dụng các tài khoản để nhận thanh toán và tiết kiệm
Sử dụng tài khoản để nhận tiền của chính phủ (%) |
Sử dụng tài khoản để nhận tiền kiều hối (%) |
Sử dụng tài khoản để nhận tiền lương (%) |
Tiết kiệm tại TCTC (%) |
Tiết kiệm tại TCTC (nữ, %) |
Tiết kiệm tại TCTC (40% người có thu nhập thấp nhất, %) |
|
Brunei |
- |
- |
- |
- |
- |
- |
Cambodia |
0.4 |
20.4 |
3.2 |
3.58 |
2.60 |
2.70 |
Indonesia |
3 |
36.3 |
6.6 |
26.56 |
26.76 |
13.80 |
Lao |
1.02 |
3.04 |
3.02 |
|
|
|
Malaysia |
19.9 |
30.8 |
64.8 |
33.77 |
32.28 |
25.56 |
Myanmar |
0.4 |
39 |
0.4 |
12.79 |
10.40 |
6.76 |
Philippines |
4 |
12.1 |
6.3 |
14.79 |
15.89 |
4.86 |
Singapore |
25.7 |
43.4 |
39.7 |
46.21 |
46.68 |
42.92 |
Thailand |
9.12 |
28.6 |
8.3 |
40.60 |
37.91 |
31.33 |
Vietnam |
1.6 |
39 |
7.8 |
14.61 |
13.66 |
9.14 |
Thế giới |
8.2 |
13.4 |
17.7 |
22.4 |
21 |
15.3 |
Nguồn: World Bank Financial Inclusion Database, 2015; World Bank, 2011.
Singapore và Malaysia là những nước có mức độ sử dụng tài khoản tại các TCTC chính thức để nhận các khoản thanh toán rất cao so với các nước khác trong khu vực. Đối với các nước có mức độ sử dụng tài khoản để nhận tiền lương và tiền chi từ Chính phủ thấp có thể là do số người lao động thủ công và các cơ sở nhỏ chiếm tỷ lệ lớn so với người lao động làm trong các tổ chức được thanh toán lương qua ngân hàng; số dân cư được nhận trợ cấp từ Chính phủ phần lớn là người có lương hưu hoặc thuộc hộ nghèo và cận nghèo lại chiếm tỷ lệ nhỏ.
2.3. Mức độ sử dụng tín dụng tại các TCTC
Tín dụng là một trong những dịch vụ tài chính quan trọng giúp tăng việc làm và thu nhập của các hộ gia đình. Trong trường hợp không có sự tiếp cận tín dụng từ các TCTC, công chúng bị buộc phải vay tiền từ gia đình, bạn bè và người cho vay tiền khác thường có lãi suất cao hơn. Trong Bảng 3, có hơn một phần ba dân số vẫn phụ thuộc vào các khoản vay từ gia đình, bạn bè ở Indonesia, Philippines, Campuchia và Malaysia trong khi tỷ lệ các khoản vay này thấp ở Việt Nam, Singapore, Myanmar và Lào.
Bảng 3: Cơ sở cho vay
Tên các nước |
Vay nợ tại TCTD (%) |
Vay nợ tại TCTD (nữ, %) |
Vay nợ tại TCTD (40% người có thu nhập thấp nhất, %) |
Vay nợ từ gia đình và bạn bè (%) |
Vay nợ từ gia đình và bạn bè (nữ, %) |
Vay nợ từ gia đình và bạn bè (40% người có thu nhập thấp nhất, %) |
Brunei |
- |
- |
- |
- |
- |
- |
Cambodia |
27.65 |
29.36 |
3.2 |
36.23 |
36.77 |
36.50 |
Indonesia |
13.14 |
11.17 |
6.6 |
41.49 |
41.23 |
43.77 |
Lao |
18.13 |
17.2 |
3.02 |
15.62 |
14.43 |
14.74 |
Malaysia |
19.52 |
16.58 |
64.8 |
38.96 |
29.85 |
45.59 |
Myanmar |
15.52 |
11.80 |
0.4 |
21.81 |
21.38 |
24.46 |
Philippines |
11.79 |
13.60 |
6.3 |
48.65 |
46.76 |
48.83 |
Singapore |
14.20 |
14.32 |
39.7 |
4.45 |
3.08 |
4.57 |
Thailand |
15.40 |
13.67 |
8.3 |
31.12 |
30.12 |
28.97 |
Vietnam |
18.45 |
21.33 |
7.8 |
29.88 |
27.28 |
28.80 |
Thế giới |
10.7 |
9.6 |
8.7 |
26.2 |
25.1 |
28.2 |
Nguồn: World Bank Financial Inclusion Database, 2015; World Bank, 2011.
Tỷ lệ tổng dân cư và nữ giới vay nợ từ các TCTC ở các nước ASEAN cao hơn mức trung bình của thế giới. Tuy nhiên, hầu hết ở các nước tỷ lệ này ở nhóm dân cư có thu nhập dưới 40% lại thấp hơn 8,7%. Điều này cho thấy, số người có thu nhập thấp vẫn chưa thực sự tiếp cận vay vốn tại các TCTC chính thức, nguyên nhân là do thủ tục tín dụng, người dân không có đủ tài sản đảm bảo thế chấp cho các khoản vay hoặc không đủ giấy tờ pháp lý, dẫn đến việc các TCTC ngại rủi ro và hạn chế cho vay đối với nhóm đối tượng này.
2.4. Mức độ sử dụng thẻ điện tử của các TCTC
Theo số liệu trình bày trong Bảng 4, hơn một phần ba dân số người trên 15 tuổi có thẻ ghi nợ ở Singapore, Thái Lan và Malaysia, trong khi ở Myanmar và Campuchia chỉ 1,7% và 5,25%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ trung bình của thế giới. Tại các quốc gia ASEAN, tỷ lệ dân cư có thẻ tín dụng còn thấp, trừ Singapore và Malaysia, tất cả các nền kinh tế khác đều thấp hơn mức trung bình của thế giới.
Bảng 4. Thẻ điện tử
Tên các nước |
Thẻ ghi nợ (%) |
Thẻ ghi nợ (nữ, %) |
Thẻ ghi nợ (40% người có thu nhập thấp nhất %) |
Thẻ tín dụng (%) |
Thẻ tín dụng (nữ, %) |
Thẻ tín dụng (40% người có thu nhập thấp nhất, %) |
Brunei |
- |
- |
- |
- |
- |
- |
Cambodia |
5.35 |
4.53 |
1.75 |
2.89 |
2.25 |
1.50 |
Indonesia |
25.94 |
26.47 |
13.11 |
1.60 |
1.93 |
0.87 |
Lao |
6.49 |
7.04 |
3.47 |
3.1 |
2.43 |
2 |
Malaysia |
41.17 |
38.43 |
32.51 |
20.15 |
15.48 |
10.53 |
Myanmar |
1.70 |
0.93 |
0.13 |
- |
- |
- |
Philippines |
20.48 |
25.35 |
9.90 |
3.20 |
3.95 |
1.38 |
Singapore |
89.42 |
88.66 |
86.90 |
35.42 |
34.54 |
26.03 |
Thailand |
54.75 |
51.58 |
45.82 |
5.69 |
4.65 |
2.52 |
Vietnam |
26.51 |
28.66 |
15.08 |
1.93 |
1.63 |
0.38 |
Thế giới |
40.1 |
36.9 |
31.5 |
17.6 |
16.2 |
11.7 |
Nguồn: World Bank Financial Inclusion Database, 2015; World Bank, 2011.
Đặc biệt, tỷ lệ dân cư có thu nhập dưới 40% có thẻ tín dụng ở Việt Nam nhỏ hơn 1%, có thể thấy ở nước ta người có thu nhập thấp hầu như không sử dụng thẻ tín dụng cho các mục đích chi tiêu, mua sắm. Lý do một phần vì họ chưa quen với việc sử dụng thẻ của ngân hàng, một phần vì không có cơ sở chứng minh nguồn trả nợ từ thu nhập định kỳ nên không được các TCTC phát hành thẻ.
2.5. Mức độ thanh toán điện tử và Ngân hàng di động
Tại Singapore, khoảng 41,5% dân số sử dụng hệ thống thanh toán điện tử (thanh toán được thực hiện hoặc thực hiện tự động bao gồm chuyển khoản ngân hàng hoặc thanh toán trực tuyến để thanh toán hoá đơn hoặc mua sắm), cao hơn mức trung bình của thế giới. Tỷ lệ này tương đối cao ở Malaysia nhưng rất thấp ở các nước còn lại trong khu vực. Ngân hàng di động đã trở nên phổ biến ở Malaysia và Singapore. Việc sử dụng điện thoại di động để thanh toán hóa đơn cao hơn mức trung bình của thế giới ở các nền kinh tế này trong khi ở Indonesia, Philippines và Việt Nam là thấp. Dữ liệu về việc sử dụng điện thoại di động để thanh toán hoá đơn không khả dụng đối với Brunei và Malaysia. (Bảng 5)
Bảng 5. Thanh toán điện tử và Ngân hàng di động
Tên các nước |
Sử dụng thanh toán điện tử để thanh toán (%) |
Sử dụng điện thoại di động để thanh toán (%) |
Sử dụng điện thoại di động để thanh toán (nữ, %) |
Sử dụng điện thoại di động để thanh toán (40% người có thu nhập thấp nhất, %) |
Brunei |
- |
- |
- |
- |
Cambodia |
0.49 |
1.65 |
2.02 |
0.36 |
Indonesia |
3.09 |
0.44 |
0.44 |
- |
Lao |
0.26 |
|
|
|
Malaysia |
12.65 |
3.17 |
1.86 |
2.60 |
Myanmar |
- |
- |
- |
- |
Philippines |
2.10 |
0.31 |
- |
0.76 |
Singapore |
41.50 |
2.53 |
2.19 |
2.48 |
Thailand |
8.56 |
0.78 |
- |
- |
Vietnam |
2.54 |
0.19 |
- |
- |
Thế giới |
14.5 |
2 |
1.8 |
1.3 |
Nguồn: World Bank Financial Inclusion Database, 2015; World Bank, 2011.
2.6. Mức độ thâm nhập bảo hiểm
Bảo hiểm là một thành phần quan trọng khác của dịch vụ tài chính. Thái Lan, Việt Nam và Malaysia là những nước có dân số tham gia bảo hiểm y tế cá nhân cao mức trung bình của thế giới. Điều này cho thấy, ở các quốc gia này, Chính phủ chú trọng đến việc phổ cập bảo hiểm y tế bắt buộc và tự nguyện cho người lao động và người dân, đảm bảo người dân được khám chữa bệnh với mức chi phí thấp nhất khi mua bảo hiểm y tế. Tỷ lệ này lại rất thấp ở Indonesia, Campuchia, Lào và Philippines.
Mặt khác, mua bảo hiểm nông nghiệp cao hơn mức trung bình của thế giới đối với Campuchia và Thái Lan nhưng rất thấp đối với Việt Nam và Lào, đối với các nước còn lại không có dữ liệu thống kê về tỷ lệ này vào năm 2015.
Bảng 6: Thâm nhập bảo hiểm
Tên các nước |
Mua bảo hiểm sức khỏe cá nhân (%) |
Mua bảo hiểm nông nghiệp (%) |
Brunei |
- |
- |
Cambodia |
2.64 |
14.31 |
Indonesia |
0.94 |
- |
Lao |
4.51 |
4.60 |
Malaysia |
16.40 |
- |
Myanmar |
|
|
Philippines |
5.49 |
- |
Singapore |
|
- |
Thailand |
24.07 |
7.40 |
Vietnam |
17.52 |
3.10 |
Thế giới |
17.3 |
6.2 |
Nguồn: World Bank Financial Inclusion Database, 2015; World Bank, 2011.
Từ các số liệu được phân tích ở trên cho thấy, phần lớn người dân Việt Nam ít có cơ hội tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức, tỷ lệ này vẫn còn khá thấp so với các quốc gia khác trong khu vực, mặc dù có cải thiện đáng kể trong những năm vừa qua.
Năm 2014, Báo cáo của Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC) đã tổ chức một cuộc khảo sát về năng lực tài chính tại 27 quốc gia, trong đó Việt Nam đứng thứ 25, với một loạt các câu hỏi liên quan đến kiến thức tài chính, nhận thức và hành vi của phụ nữ. Rõ ràng là việc giáo dục kiến thức về tài chính nâng cao ở Việt Nam còn hạn chế, số người có hiểu biết về tài chính và các dịch vụ của các TCTC còn thấp dẫn đến việc ngại tham gia và tiếp xúc với TCTC. Hơn nữa, vào năm 2015 đánh giá về bảo vệ người tiêu dùng do Ngân hàng Thế giới ghi nhận, Việt Nam cam kết tăng cường bảo vệ người tiêu dùng ở cấp quốc gia, nhưng quy định về môi trường và năng lực xung quanh vấn đề tài chính bảo vệ người tiêu dùng (đặc biệt trong việc điều phối giữa các nhà quản lý và giám sát) vẫn còn giai đoạn đầu phát triển.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, bên cạnh các tổ chức tài chính vi mô đang hoạt động chính thức, Chính phủ đã đưa ra các chương trình có nội dung phù hợp với mục tiêu thúc đẩy quá trình tài chính toàn diện như: Khung pháp lý liên quan đến tài chính vi mô đang được áp dụng như Luật các tổ chức tín dụng 2013 cho phép các công ty tài chính vi mô được cấp phép cung cấp dịch vụ tiền gửi và tín dụng, Quyết định 2195/2011 thiết lập một hướng đi cho hệ thống tài chính vi mô Việt Nam đến năm 2020. Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô tại Việt Nam đến năm 2020; Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020; Đề án phát triển hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân đến năm 2020; Đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế… những chương trình này được triển khai và đã có những tác động tích cực trong việc nâng cao việc sử dụng dịch vụ và mở rộng đối tượng tiếp cận của các TCTC.
3. Kinh nghiệm trong tiến trình triển khai tài chính toàn diện của một số nước trong ASEAN
3.1. Philippines
Đất nước đầu tiên có thể kể đến là Philippines, Ngân hàng Trung ương Philippines xác định tài chính toàn diện là một mục tiêu theo đuổi cùng với việc thúc đẩy sự ổn định và hiệu quả trong hệ thống tài chính. Từ những năm 2000, Ngân hàng Trung ương Philippines đã chủ động trong việc phát triển tài chính vi mô theo ba hướng tiếp cận là: tạo lập môi trường pháp lý và hệ thống các chính sách phù hợp; nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Trung ương cũng như ngành Ngân hàng trong hoạt động tài chính vi mô; kết hợp với phát triển hoạt động tài chính vi mô theo hướng bền vững. Philippines đã vạch ra Kế hoạch phát triển Philippines (2011-2016) với tầm nhìn cho ngành tài chính là một “hệ thống tài chính có tính đáp ứng theo từng khu vực, phát triển theo định hướng và đáp ứng được các nhu cầu phát triển của đa dạng người dân”.
Khung pháp lý đối với tất cả các loại hình TCTC vi mô tập trung vào chất lượng tài sản, hiệu quả hoạt động và thông tin minh bạch. Hoạt động của các TCTC vi mô nói chung được sự giám sát chặt chẽ, cụ thể: Ngân hàng có hoạt động tài chính vi mô thì phải chịu sự giám sát của Ngân hàng Trung ương Philippines; hợp tác xã hoạt động tài chính vi mô được giám sát bởi Cơ quan Hợp tác phát triển (Cooperative Development Authority - CDA) và các tổ chức phi chính phủ như Hội đồng Tài chính vi mô của Philippines (Microfinance Council of the Philippines viết tắt MCPI).
Ngân hàng Trung ương cũng đang vốn hóa hệ thống mạng lưới các văn phòng ngân hàng vi mô (Micro Banking Offices - MBOs) để cung ứng các dịch vụ tài chính đến những khu vực chưa được phục vụ như các doanh nghiệp nhỏ và người nghèo ở Philippines. Hiện nay, Ngân hàng Trung ương Philippines khuyến khích theo hai hướng hoặc thành lập các ngân hàng chuyên hoạt động tài chính vi mô hoặc xây dựng các hoạt động tài chính vi mô trong các ngân hàng đang có.
Như vậy, Ngân hàng Trung ương Philippines đã và đang tiếp tục phát triển hệ thống tài chính toàn diện hướng đến phục vụ nhu cầu người dân, đặc biệt là những người chưa từng sử dụng hay chưa đủ điều kiện được sử dụng các dịch vụ tài chính trước đây. Phát triển một hệ thống tài chính toàn diện đa dạng các sản phẩm, mở rộng kênh phân phối và mạng lưới giao dịch, giảm các rào cản về việc gia nhập và sử dụng các sản phẩm tài chính cũng như luôn bảo vệ khách hàng (Benedict & Magday, 2015).
3.2. Indonesia
Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện của Indonesia được công bố vào tháng 6 năm 2012, với tầm nhìn là tạo lập một hệ thống tài chính mà tất cả các tầng lớp trong xã hội có thể tiếp cận nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và bình đẳng về
thu nhập.
Các chương trình đã được thực hiện bao gồm: Chương trình trợ cấp tài chính (FIP) khuyến khích mọi tầng lớp xã hội tiếp cận với hệ thống tài chính; sản phẩm ngân hàng tiết kiệm không có phí quản lý như TabunganKu và tài khoản tiết kiệm cơ bản khác (BSA); chương trình trợ giúp Chính phủ để cải thiện khả năng tiếp cận tài chính cho cộng đồng và đồng thời khuyến khích xu hướng không sử dụng tiền mặt mà chuyển qua tiền điện tử thông qua đại lý dịch vụ tài chính số; chương trình cải thiện việc cung cấp thông tin cho ngư dân và nông dân nhằm giảm bớt thông tin bất đối xứng cho người sản xuất cũng như cải thiện vị trí thương lượng của nông dân và ngư dân.
Đồng thời thực hiện giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về tài chính và kiến thức về sản phẩm, dịch vụ của các TCTC chính thức bằng cách đưa các tài liệu giáo dục về quản lý tài chính vào các chương trình giáo dục cho học sinh và sinh viên đại học; đào tạo giảng viên cho sinh viên cao đẳng và giảng viên Khoa Kinh tế. Phát triển dịch vụ Tài chính kỹ thuật số (DFS), DFS là sự kết hợp của các dịch vụ tài chính và thanh toán được cung cấp và quản lý bởi công nghệ di động hoặc các trang mạng. Với việc tiếp cận tài chính ngày càng tăng, DFS góp phần nâng cao năng lực kinh tế hộ gia đình, kinh tế địa phương, từ đó tác động tích cực đến nền kinh tế quốc gia và sự ổn định của hệ thống tài chính. DFS là một trong những nỗ lực mang tính đặc thù nhằm cải thiện tài chính toàn diện ở Indonesia.
Nhìn chung, Ngân hàng Indonesia xác định việc xây dựng một hệ thống tài chính tổng thể đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả các bên liên quan, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý. Đồng thời, Ngân hàng Indonesia đưa ra các chương trình tài chính toàn diện với mục tiêu đạt được phúc lợi kinh tế thông qua giảm nghèo, phân phối thu nhập và ổn định hệ thống tài chính ở Indonesia. (Woro Widyaningrum, 2015).
3.3. Malaysia
Năm 2006, các chính sách phát triển khu vực tài chính của Malaysia khuyến khích các ngân hàng thương mại đóng vai trò then chốt trong việc mở rộng tiếp cận tài chính cho các doanh nghiệp vi mô. Theo khuôn khổ này, Tổng công ty Bảo lãnh tín dụng (CGC) được thành lập tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nhiều hơn với và dễ dàng hơn các dịch vụ tài chính. Luật Ngân hàng Trung ương Malaysia năm 2009 quy định, Ngân hàng Negara Malaysia (BNM) có chức năng chính là phát triển một hệ thống tài chính tổng thể, là cơ quan hàng đầu chịu trách nhiệm về các chính sách và sáng kiến nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện ở Malaysia.
Đồng thời, các TCTC phát triển (DFIs), hợp tác xã và các tổ chức tài chính vi mô (như Amanah Ikhtiar Malaysiavà Tabung Ekonomi Kumpulan Usaha Niaga) cũng có vai trò quan trọng trong việc phục vụ các nhóm khách hàng ở Malaysia với mạng lưới khắp cả nước bao gồm cả khu vực nông thôn, giúp các doanh nghiệp và người tiêu dùng tiếp cận các dịch vụ tài chính dễ dàng hơn. Ủy ban Hợp tác xã “Suruhanjaya Koperasi Malaysia” (SKM) của Malaysia được thành lập để điều chỉnh sự phát triển của hợp tác xã.
Người dân có thể tương tác trực tiếp với các TCTC để có được thông tin về các dịch vụ tư vấn tài chính, giải quyết khiếu nại thông qua hệ thống BNMLINK hay Văn phòng hòa giải tài chính. Ủy ban bảo hiểm tiền gửi (PIDM) được thành lập vào 2005 với nhiệm vụ bảo hiểm tiền gửi và các khoản thanh toán theo chính sách bảo hiểm cho khách hàng.
Với những thành công bước đầu, Malaysia tiếp tục hợp tác chặt chẽ với các nhà hoạch định chính sách quốc tế từ Liên minh về hỗ trợ tài chính (AFI), Quỹ phát triển vốn Liên hợp quốc (UNCDF) và Ngân hàng Thế giới trong việc tăng cường bao quát về tài chính toàn diện trong nước (Zarina Abd. Rahman và cộng sự, 2015).
3.4. Campuchia
Chính phủ Campuchia đã xây dựng chiến lược tài chính vi mô quốc gia để thông qua chính sách tín dụng nông thôn, khởi xướng dự án tín dụng, tiết kiệm nông thôn, khuyến khích các ngân hàng thành lập chi nhánh tại các vùng nông thôn và thúc đẩy các dự án thí điểm tài chính vi mô. Trong lĩnh vực ngân hàng, chính sách tài chính toàn diện được triển khai thông qua kênh TCTC vi mô, bắt đầu từ các dự án của các tổ chức phi Chính phủ đầu những năm 90. Cho đến nay, Chính phủ và Ngân hàng quốc gia Campuchia thừa nhận tài chính vi mô và các bên liên quan đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần xoá đói giảm nghèo theo mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Campuchia, giúp giảm một nửa tỷ lệ người sống dưới mức chuẩn nghèo quốc gia trong giai đoạn 1993 - 2015.
Trong chiến lược phát triển ngành tài chính 2011-2020, Campuchia đã đưa ra mục tiêu phát triển tài chính toàn diện thông qua tăng cường tiếp cận tài chính của người nghèo, cải cách hoạt động tài chính vi mô. Các chính sách phát triển liên quan đến tài chính toàn diện đã được cụ thể hóa và chia thành 3 giai đoạn là ngắn hạn, trung hạn đến năm 2017 và dài hạn đến năm 2020 gồm có tăng cường các dịch vụ tài chính, mở rộng khả năng tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ tài chính cho các cá nhân ở những nơi khó tiếp cận (đặc biệt là người nghèo), bảo vệ người tiêu dùng, tăng cường giáo dục về tài chính. Các cơ quan liên quan bao gồm Bộ Kinh tế và Tài chính (MEF), Hiệp hội Tài chính vi mô của NBC chịu trách nhiệm trực tiếp triển khai các chính sách trên.
Đến nay, hệ thống ngân hàng của Campuchia đã đạt được nhiều mốc quan trọng và đang tiến tới trở thành một hệ thống ngân hàng phát triển hoàn thiện, số lượng người gửi tiền và người đi vay tiếp tục tăng lên, công chúng ngày càng tín nhiệm hệ thống Ngân hàng. Campuchia đang trong quá trình hoàn thành các mục tiêu trung hạn và dài hạn vào năm 2020 với việc đặt ra các chính sách và mục tiêu phát triển nhằm thúc đẩy hệ thống tài chính toàn diện sẽ đem lại lợi ích cho tất cả các bên liên quan (Ou Sokpanha, 2015).
4. Một số đề xuất nhằm phát triển tài chính toàn diện ở Việt Nam
Một là, định hướng xây dựng chiến lược cho phát triển tài chính toàn diện ở Việt Nam
Định hướng chung để phát triển tài chính toàn diện toàn cầu trong thời gian tới đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng của 4 yếu tố bao gồm: tạo lập một môi trường và hệ thống các chính sách hỗ trợ; kết hợp với việc củng cố các định chế tài chính một cách toàn diện; cải tiến sản phẩm dịch vụ tài chính, các kênh phân phối, đồng thời nâng cao nhận thức và kiến thức tài chính cho các tầng lớp người dân.
Việt Nam muốn phát triển toàn diện tài chính trong dân cư trong thời gian tới, tương tự Indonesia (Woro Widyaningrum, 2015) cần đưa ra các chiến lược bao gồm sáu trụ cột sau: nâng cao kiến thức và nhận thức của người dân về các sản phẩm và dịch vụ tài chính trên thị trường tài chính chính thức; nâng cao vai trò của chính phủ trong việc cung cấp tài chính công trực tiếp hoặc có điều kiện để khuyến khích sự trao quyền kinh tế; cung cấp bản đồ thông tin tài chính - tăng cường năng lực của cộng đồng, đặc biệt là những khách hàng được các TCTC đánh giá là không có khả năng chi trả hoặc không thể vay được, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa; đưa ra các chính sách hoặc cơ sở pháp lý để tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính; mở rộng phạm vi của các dịch vụ tài chính bằng cách sử dụng các kênh trung gian và phân phối nhằm tăng cường hợp tác giữa các TCTC và các chủ thể kinh doanh; bảo vệ người tiêu dùng, cho phép chủ thể tin tưởng hơn vào sự tương tác của họ với các TCTC trong việc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ được cung cấp bởi các TCTC.
Hai là, các gợi ý chính sách
Trên định hướng hành động chung đó, nhìn nhận lại thực trạng và diễn biến của mức độ tài chính toàn diện ở Việt Nam; kết hợp với học tập kinh nghiệm ở các nước có các đặc điểm tương đồng trong khu vực, nhóm tác giả có một số đề xuất, khuyến nghị chính sách như sau:
- Đối với Nhà nước
Trước tiên về mặt Nhà nước, Việt Nam cần ưu tiên hoàn thiện cơ chế thể chế và khung pháp lý cần hoàn thiện nhằm tạo cơ sở nền tảng cũng như môi trường minh bạch để phát triển tài chính toàn diện.
Khung pháp lý đối với tất cả các loại hình TCTC nói chung và các TCTC chuyên biệt cần được hoàn thiện theo hướng tập trung vào hiệu quả hoạt động và thông tin minh bạch. Đồng thời phải lập ra các nguyên tắc trọng yếu mà các TCTC này khi hoạt động cần phải tiên quyết tuân thủ ví dụ như áp dụng các tiêu chuẩn về quản trị rủi ro theo Basel II hay các nguyên tắc an toàn về nguồn vốn.
Bên cạnh đó, chức năng Nhà nước càng cần thể hiện rõ vai trò điều tiết vĩ mô của mình ở các khía cạnh liên quan như sau: việc phân phối các điểm truy cập tài chính những nơi chưa được phục vụ (chủ yếu nông thôn và khu vực vùng sâu vùng xa), tăng cường cam kết với các tổ chức tài chính quốc tế và chỉ định một cơ quan chuyên biệt để tạo điều kiện phối hợp các bên liên quan để thúc đẩy gia tăng mức độ tài chính toàn diện lớn hơn.
Hơn nữa, đứng trước bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam cần chủ động phát triển các dịch vụ tài chính trên nền tảng ứng dụng công nghệ kỹ thuật số để đẩy nhanh tiến trình tài chính toàn diện trong nước và bắt kịp xu hướng của các nước khác trên thế giới.
- Đối với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đóng vai trò đầu mối và dẫn đầu trong công cuộc thực hiện chương trình hành động tài chính toàn diện ở phạm vi quốc gia. Xét bối cảnh Việt Nam hiện có một hệ thống các ngân hàng và các tổ chức tài chính với nguồn nhân lực và hệ thống các chi nhánh rộng khắp cả nước nên rất thuận lợi để học tập mô hình của Philippines (Ou Sokpanha, 2015) lấy ngành Ngân hàng làm trọng tâm để thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện nói chung và hoạt động tài chính vi mô nói riêng theo hướng bền vững.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể khuyến khích theo hai hướng hoặc thành lập các ngân hàng định hướng chuyên hoạt động tài chính vi mô hoặc xây dựng các hoạt động tài chính vi mô trong các ngân hàng đang có.
- Đối với các TCTD
Hoạt động của các TCTC vi mô nói chung phải được sự giám sát chặt chẽ của các tổ chức đại diện cho Nhà nước mà đại diện cao nhất là Ngân hàng Nhà nước. Các tổ chức này cần được giám sát và có chế tài tuân thủ các nguyên tắc hoạt động mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra, đồng thời khuyến khích các hoạt động như cung cấp thông tin đầy đủ, minh bạch và kịp thời lên các cơ quan đại diện giám sát. Bên cạnh đó, các tổ chức này cần chủ động thiết kế các sản phẩm tài chính phù hợp có chi phí hợp lý, thủ tục đơn giản và giới thiệu quảng bá rộng rãi tới các tầng lớp người dân cả nước, đặc biệt là những người nghèo và có khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính này.
Ngoài ra, cũng cần tăng cường phối hợp với các cơ quan ban ngành trong việc thúc đẩy phổ cập và chia sẻ kiến thức tài chính đến rộng rãi người dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Allen, F., Demirgüç-Kunt, A., Klapper, L. F. & Martinez Peria, M. S. (2012). The foundations of financialinclusion: Understanding ownership and use of formal accounts. World Bank Policy Research WorkingPaper, 6290. The World Bank, Washington DC, USA.
Al Benedict. & B. Magday. (2015). Advancing Inclusive Financial System in the next decade: Microfinance in the Philippines. The SEACEN centre, 278, 189-212. Kuala Lumpur, Malaysia.
Beck, T., Demirgüç-Kunt, A. & Peria, M. S. M. (2007). Reaching out: Access to and use of bankingservices across countries. Journal of Financial Economics, 85(1), 234–266.
Cihak, M., Mare, D. S. & Melecky, M. (2016). The Nexus of financial inclusion and financial stability: A study of trade-offs and synergies. Policy Research working paper, 7722. World Bank, Washington DC, USA.
Demirgüç-Kunt, A. & Klapper, L. (2012). Measuring Financial Inclusion. The Global Findex Database.World Bank Policy Research Working Paper, 6025, The World Bank, Washington DC, USA.
Demirgüç-Kunt, A., Klapper, L., Singer, D. & Van Oudheusden, P. (2015). The Global Findex Database2014. Measuring financial inclusion around the World. World Bank Policy Research Working Paper, 7255.The World Bank, Washington DC, USA.
Hannig, A.& Jansen, S. (2010). Financial inclusion and financial stability. Current policy issues. ADBIWorking Paper, 259. Asian Development Bank Institute, Tokyo, Japan.
John Villasenor, Darrell M. West. & Robin Lewis. (2016). The 2016 Brookings Financial Inclusion Project Report: Advancing Equitable Financial Ecosystems. Center for Technology Innovation at Brookings. Washington DC, USA.
Ou Sokpanha. (2015). Advancing Inclusive Financial System in the next decade: A Perspective from Cambodia’s Banking sector. The SEACEN centre, 278, 35-60. Kuala Lumpur, Malaysia.
Shrestha, M. B. (2015). Advancing Inclusive Financial System in the next decade. The SEACEN centre, 278. Kuala Lumpur, Malaysia.
The World Bank (2013). World development report 2014: Risk and opportunity. Managing risk fordevelopment. The World Bank, Washington DC, USA.
The World Bank (2014). Global Financial Development report 2014: Financial Inclusion. The World Bank, Washington DC, USA.
The Economist Intelligence Unit (EIU). (2015). Global Microscope 2015: The enabling environment for financial inclusion. Sponsored by MIF/IDB, CAF, Accion and the Metlife Foundation. EIU, New York, NY.
Woro Widyaningrum. (2015). Advancing Inclusive Financial System in the next decade: Strategy of Financial Inclusion - The case of Indonesia. The SEACEN centre, 278, 63-90. Kuala Lumpur, Malaysia.
Zarina Abd. Rahman & Wan Mohammad Zainuddin Mohammad Zaini. (2015). Advancing Inclusive Financial System in the next decade: Advancing Inclusive Financial system in the next decade in Malaysia. The SEACEN centre, 278, 91-112. Kuala Lumpur, Malaysia.
1 Trường Đại học Ngân hàng Tp.HCM