Skip to Main Content
Lỗi

Cổng Thông Tin Điện Tử

Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam

|
  • Tin tức - sự kiện
  • Chính sách tiền tệ
    • Định hướng điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng trong năm
    • Thẩm quyền quyết định CSTT quốc gia và các công cụ thực hiện
  • Thanh toán & ngân quỹ
    • Nhiệm vụ của NHNN trong hoạt động thanh toán
    • Các hệ thống thanh toán trong nền kinh tế
      • Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng
      • Các hệ thống thanh toán khác
    • Giám sát hệ thống thanh toán
    • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Hệ thống mã tổ chức phát hành thẻ
    • Biểu phí dịch vụ thanh toán qua NHNN
    • Hoạt động ngân quỹ
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Phát hành tiền
    • Đồng tiền Việt Nam
    • Tiền thật, tiền giả
    • Những hành vi bị nghiệm cấm và một số quy định về xử phạt liên quan đến phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam
  • QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
    VÀ KINH DOANH VÀNG
  • Dữ liệu thống kê
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM,POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chỉ tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng theo quý
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Kết quả điều tra
      • Điều tra trực tuyến
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • Tin tức sự kiện
  • Thông cáo báo chí
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Dữ liệu Thống kê
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Văn bản quy phạm pháp luật
  • Chính sách tiền tệ
    • Định hướng điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng trong năm
    • Thẩm quyền quyết định CSTT quốc gia và các công cụ thực hiện
  • Thanh toán & ngân quỹ
    • Nhiệm vụ của NHNN trong hoạt động thanh toán
    • Các hệ thống thanh toán trong nền kinh tế
      • Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng
      • Các hệ thống thanh toán khác
    • Giám sát hệ thống thanh toán
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Hệ thống mã tổ chức phát hành thẻ
    • Biểu phí dịch vụ thanh toán qua NHNN
    • Hoạt động ngân quỹ
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Phát hành tiền
    • Đồng tiền Việt Nam
    • Tiền thật, tiền giả
    • Những hành vi bị nghiệm cấm và một số quy định về xử phạt liên quan đến phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • Giới thiệu NHNN
    • Sơ lược quá trình thành lập và phát triển
    • Chức năng nhiệm vụ
    • Ban lãnh đạo đương nhiệm
    • Lãnh đạo NHNN qua các thời kỳ
Trang chủ
  • Tin tức sự kiện
  • Thông cáo báo chí
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Dữ liệu Thống kê
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Văn bản quy phạm pháp luật
  • Chính sách tiền tệ
    • Định hướng điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng trong năm
    • Thẩm quyền quyết định CSTT quốc gia và các công cụ thực hiện
  • Thanh toán & ngân quỹ
    • Nhiệm vụ của NHNN trong hoạt động thanh toán
    • Các hệ thống thanh toán trong nền kinh tế
      • Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng
      • Các hệ thống thanh toán khác
    • Giám sát hệ thống thanh toán
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Hệ thống mã tổ chức phát hành thẻ
    • Biểu phí dịch vụ thanh toán qua NHNN
    • Hoạt động ngân quỹ
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Phát hành tiền
    • Đồng tiền Việt Nam
    • Tiền thật, tiền giả
    • Những hành vi bị nghiệm cấm và một số quy định về xử phạt liên quan đến phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • Giới thiệu NHNN
    • Sơ lược quá trình thành lập và phát triển
    • Chức năng nhiệm vụ
    • Ban lãnh đạo đương nhiệm
    • Lãnh đạo NHNN qua các thời kỳ
  • Tạp chí Ngân hàng

Những cơ hội, thách thức và đề xuất giải pháp trong hoạt động ngân hàng năm 2018 (số 3-4)

28/02/2018 16:58:00
0:00
/
0:00
Giọng Nam
  • Giọng Nam
  • Giọng Nữ

Những cơ hội, thách thức và đề xuất giải pháp trong hoạt động ngân hàng năm 2018

TS. Nguyễn Minh Phong, ThS. Nguyễn Trần Minh Trí1

 

Năm 2018 là năm mang lại cho hệ thống ngân hàng Việt Nam nhiều cơ hội và cũng không ít thách thức, nổi bật là:

 

Những cơ hội và và kỳ vọng mới

Thứ nhất, cơ hội của ngành Ngân hàng năm 2018, trước hết xuất phát từ thế và lực mới có được từ sự hội tụ những thành tựu mà ngành Ngân hàng đã đạt được trong năm 2017, nổi bật là chất lượng tài sản, hệ số tín nhiệm và sức mạnh chung toàn hệ thống được cải thiện khá rõ rệt theo ghi nhận trong nhiều báo cáo quốc gia và quốc tế.

Theo Tổng cục Thống kê, năm 2017 hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm cả nước tăng 8,14%, đạt mức tăng cao nhất trong 7 năm gần đây (năm 2011, tăng 7,45%; năm 2012, tăng 5,58%; năm 2013, tăng 6,88%; năm 2014 tăng 5,83%; năm 2015, tăng 7,38%; năm 2016, tăng 7,79%). Tính đến thời điểm 20/12/2017, tổng phương tiện thanh toán tăng 14,19% so với cuối năm 2016 (cùng kỳ năm trước tăng 16,47%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 14,5% (cùng kỳ năm 2016, tăng 16,88%). Tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt mức 18,17% - dưới mức dự kiến Chính phủ đặt ra là 22%. Mặc dù có sự chênh lệch giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng huy động vốn, nhưng thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn ở mức ổn định. Điều đó cho thấy chất lượng tăng trưởng tín dụng đã được nâng lên; chất lượng tăng trưởng kinh tế được nâng lên. Chính sách lãi suất được điều hành hợp lý, lãi suất cho vay trong năm qua đã giảm 0,5 - 1% giúp doanh nghiệp giảm bớt chi phí vốn. Lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam phổ biến ở mức 0,8 - 1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng; từ 4,3 - 5,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; từ 5,3 - 6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng và kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,5 - 7,3%/năm. Mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến của các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6 - 6,5%/năm đối với ngắn hạn, 9 - 10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8 - 9%/năm đối với ngắn hạn; 9% - 11%/năm đối với trung và dài hạn. Cơ cấu tín dụng tiếp tục theo hướng tập trung trên 80% vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh được ưu tiên, các dự án lớn trọng tâm, trọng điểm theo chủ trương của Chính phủ nhằm hỗ trợ có hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế. Tín dụng cho bất động sản, chứng khoán kiểm soát tương đối tốt. Bên cạnh đó, nhiều chương trình tín dụng ưu đãi được triển khai tích cực tạo động lực hỗ trợ trực tiếp cho các ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Tổng tài sản của các doanh nghiệp bảo hiểm ước tính đạt 302,9 nghìn tỷ đồng, tăng 23,4% so với năm 2016. Các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư trở lại nền kinh tế khoảng 247,8 nghìn tỷ đồng, tăng 26,74%. Công tác cải cách hành chính và cải thiện môi trường kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng tiếp tục đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, có ý nghĩa thiết thực tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận với nguồn vốn tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Nhờ đó, chỉ số “Tiếp cận tín dụng” của Việt Nam đã tăng 3 bậc và đứng thứ 4 trong ASEAN. Năm 2017 cũng là năm thứ hai liên tiếp NHNN dẫn đầu các Bộ, ngành về chỉ số cải cách hành chính. Hệ thống NHTM đã cung cấp, an sinh xã hội rất kịp thời cho vùng khó khăn và làm tốt trách nhiệm xã hội của mình

Thống kê của NHNN cũng khẳng định vốn tự có toàn Ngành trong tám tháng đầu năm 2017 tăng 6,92%, đạt 683.900 tỉ đồng, trong đó nhóm NHTM Nhà nước tăng 7,28%, nhóm NHTMCP tăng 5,33%. Tổng tài sản toàn ngành Ngân hàng đến 31/8/2017 là 9,25 triệu tỉ đồng, tăng 8,79% so với đầu năm. Kỳ hạn tín dụng cũng đang có sự chuyển dịch tích cực, với nguồn vốn trung, dài hạn ngày càng tăng, dư nợ tín dụng chuyển dịch từ trung, dài hạn sang ngắn hạn. Tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của toàn ngành đến hết tháng 8/2017 là 32,01%, giảm 2,5% so với đầu năm. Trong đó, nhóm NHTM Nhà nước là 35,44%, giảm 1,88% so với đầu năm, còn nhóm NHTMCP là 35,91%, giảm đến 4,02% nhờ nguồn vốn trung, dài hạn của nhóm này đạt được tăng trưởng tốt hơn.

Theo số liệu của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn đến cuối tháng 9/2017 đã giảm từ mức 55,6% của cùng kỳ năm 2016 xuống còn 54%. Các hoạt động dịch vụ, kinh doanh ngoại hối và đầu tư chứng khoán của các ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ; nhờ đó, nguồn phí thu từ mảng thanh toán và bảo hiểm, tăng trưởng mạnh và đóng góp đáng kể vào lợi nhuận của các ngân hàng thay vì chỉ tập trung đơn điệu từ cho vay tín dụng truyền thống như trước đây. Hệ số NIM (tỷ lệ thu nhập lãi cận biên) cũng cải thiện nhờ tăng trưởng mảng bán lẻ, cho vay khách hàng cá nhân. Khả năng sinh lời của các ngân hàng sẽ được duy trì ở mức ổn định nhờ thu nhập trước trích lập dự phòng tăng nhẹ trong vòng 12 - 18 tháng tới cùng với việc tín dụng tăng trưởng tốt. Theo quan sát, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) là đơn vị dẫn đầu về lợi nhuận của hệ thống các NHTM Việt Nam, với lợi nhuận trước thuế đạt 11.337 tỉ đồng năm 2017. Vietcombank cũng là trường hợp đầu tiên mua lại toàn bộ nợ xấu đã bán sang VAMC từ trong năm 2016. Lợi nhuận hoàn nhập từ xử lý nợ xấu đã được dự báo trước. Ba năm gần đây, mỗi năm ngân hàng này đều đặn thu hồi được 1.500 - 2.000 tỷ đồng nợ ngoại bảng; riêng 9 tháng đầu năm 2017 thu được 1.554 tỷ đồng… Trên thực tế, lợi nhuận nhiều NHTM còn được cải thiện do hợp tác với bảo hiểm - một điểm nổi bật trong xu hướng gia tăng tỷ trọng nguồn thu dịch vụ. Đồng thời, lợi nhuận cao đã giúp nhiều ngân hàng khởi sắc hơn trên thị trường chứng khoán, như HDBank và TPBank, VIB, VPBank và LienVietPostBank…và hỗ trợ sức tăng trưởng bùng nổ kỷ lục của TTCK Việt năm 2017. Lợi nhuận tăng trưởng mạnh cũng giúp các ngân hàng gia tăng nguồn lực tài chính để xử lý các khoản nợ xấu không thể thu hồi được, từ đó nâng cao chất lượng tài sản…

Những thành công và triển vọng tích cực trong hệ thống ngân hàng cũng được các tổ chức quốc tế uy tín theo sát và khẳng định: Theo báo cáo công bố ngày 31-10-2017, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm (XHTN) Moody’s (Moody’s Investors Service), Moody’s đã tiếp tục nâng mức đánh giá triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ “ổn định” lên “tích cực”; đồng thời, dự báo chất lượng tài sản và mức sinh lời của các ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp tục được cải thiện trong 12 - 18 tháng tới. Dự báo này dựa trên kết quả tính toán tỷ lệ nợ có vấn đề của nhóm 15 ngân hàng được đánh giá đã giảm từ 9,4% năm 2012 xuống còn 7,1% năm 2016 và dự kiến sẽ tiếp tục giảm xuống chỉ còn 5,8% trong năm 2018. Trước đó, ngày 19/10/2016, tổ chức này đã nâng mức xếp hạng tín dụng dài hạn cho hàng loạt ngân hàng Việt Nam, như NHTMCP Quân Đội (MB) từ Caa1 lên B2, NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) từ Caa1 lên B3 và triển vọng của hai ngân hàng ở mức ổn định nhờ các chỉ số tài chính cơ bản được cải thiện ổn định như khả năng thanh toán, chất lượng tài sản; Đồng thời, nâng mức xếp hạng tín dụng dài hạn của 5 ngân hàng thêm 1 bậc, bao gồm: Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank), Ngân hàng Quốc tế Việt Nam (VIB), Ngân hàng An Bình (ABBank), Ngân hàng Á châu (ACB) và Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) từ B3 lên B2 bởi sự cải thiện tình hình tài chính của các ngân hàng này bất chấp môi trường kinh doanh và các yếu tố kinh tế vĩ mô chưa cải thiện nhiều. Moody’s cho biết, động thái này phản ánh kỳ vọng rằng, môi trường kinh tế và kinh doanh của các ngân hàng được cải thiện ở Việt Nam sẽ dẫn đến sự cải thiện hồ sơ tín dụng, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời của các ngân hàng, đồng thời đóng góp cho sự ổn định tương đối về nguồn vốn và thanh khoản của các ngân hàng. Hệ số tín nhiệm phản ánh nhận định của các tổ chức XHTN về khả năng, sự sẵn sàng và uy tín của Chính phủ và TCTD trong việc thực hiện các nghĩa vụ nợ, chất lượng tài sản và độ ổn định kinh tế vĩ mô, dự trữ ngoại hối, cán cân thanh toán, phản ánh lòng tin về “sức khỏe” và giúp tiết giảm chi phí huy động vốn trong trường hợp Chính phủ, các TCTD hay các doanh nghiệp tiếp cận thị trường vốn trong nước và quốc tế. Kết quả cải thiện XHTN nêu trên đã phản ánh khá sát những nỗ lực chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, NHNN và của toàn Ngành về tái cơ cấu hệ thống TCTD, xử lý và kiểm soát nợ xấu, cung cấp thông tin định kỳ lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng ra công chúng, nhất là các chỉ số mà các công ty XHTN quốc gia quan tâm; đẩy mạnh công tác truyền thông về chủ trương, đường lối, chính sách quản lý điều hành của Chính phủ và NHNN nhằm góp phần tạo sự đồng thuận trong nước và quốc tế; đề xuất, tiếp nhận hỗ trợ tư vấn, chia sẻ kinh nghiệm duy trì tiếp xúc với các tổ chức XHTN quốc gia.

Thứ hai, cơ hội năm 2018 của hệ thống ngân hàng đến từ những thành công trong phát triển kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư trong năm 2017 giúp tăng khả năng mở rộng tổng cầu tín dụng và năng lực trả nợ của các doanh nghiệp.

Năm 2017 là một năm “bội thu” của Việt Nam với nhiều cải thiện mạnh mẽ nhất trong xếp hạng chỉ số và chỉ tiêu kinh tế quốc gia và quốc tế. Đây là năm đầu tiên trong 11 năm qua, cả nước đạt và vượt tất cả 13 chỉ tiêu kế hoạch về kinh tế - xã hội đã được Quốc hội thông qua, với tăng trưởng GDP quý sau luôn cao hơn quý trước và sức tăng trưởng đồng đều ở các lĩnh vực.

Đặc biệt, cả nước ghi nhận một loạt kỷ lục mới, cao nhất từ trước đến nay, nổi bật là: Sự bùng nổ số doanh nghiệp đăng ký và thành lập mới, quay trở lại hoạt động (tổng cộng lên tới 153,3 nghìn doanh nghiệp, trong khi chỉ có 60.553 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, giảm 0,2% so với năm trước; sự chênh lệch giữa số doanh nghiệp đăng ký mới với số doanh nghiệp dừng hoạt động lên tới hơn 50%, tốt nhất trong nhiều năm qua) và cơ hội thị trường tích cực của các doanh nghiệp trong nước (theo khảo sát của Tổng cục Thống kê trong quý IV/2017, có 71,3% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý IV/2017 ổn định hoặc tốt hơn quý III/2017; và 73,9% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng quý I/2018 sẽ ổn định hoặc tốt hơn quý IV/2017). Sự vượt trội trong thu hút FDI, với 2.591 dự án FDI mới, với tổng 21,3 tỷ USD, tăng 3,5% về số dự án và tăng 42,3% về vốn so với cùng kỳ năm 2016; 1.188 lượt dự án tăng vốn đầu tư đạt 8,4 tỷ USD, tăng 49,2%; 5.002 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần là 6,2 tỷ USD, tăng 45,1% so với năm 2016. Vốn FDI thực hiện năm 2017 ước đạt 17,5 tỷ USD, tăng 10,8% so với năm 2016. Hơn nữa, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,40%, cao nhất trong 7 năm gần đây. Xuất khẩu rau củ quả đạt kỷ lục khoảng 3,6 tỉ USD, tăng 43,1%, vượt cả xuất khẩu gạo và dầu thô. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2017 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.667,4 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2016 và bằng 33,3% GDP (Vốn khu vực Nhà nước chiếm 35,7% tổng vốn và tăng 6,7% so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước chiếm 40,5% và tăng 16,8%; khu vực FDI chiếm 23,8% và tăng 12,8%). Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP giảm từ 38,4% giai đoạn 2007 - 2011 xuống 31,9% giai đoạn 2012 - 2017, chủ yếu do giảm tỷ lệ vốn từ nguồn đầu tư công. Dự trữ ngoại hối nhà nước tiếp tục tăng thêm và đạt gần 53 tỉ USD. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2017 tăng 0,21% so với tháng trước và tăng 2,6% so với tháng 12/2016. CPI bình quân năm 2017 tăng 3,53% so với bình quân năm 2016, dưới mục tiêu Quốc hội đề ra. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2017 tăng 1,41% so với bình quân năm 2016. Giá vàng trong nước biến động theo giá vàng thế giới, có lúc chênh lệch giá trong và ngoài nước chỉ còn 500 nghìn đồng. Chỉ số giá vàng tháng 12/2017 giảm 0,12% so với tháng trước; tăng 4,74% so với cùng kỳ năm 2016; bình quân năm 2017 tăng 3,71% so với năm 2016. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2017 tăng 0,02% so với tháng trước và giảm 0,05% so với cùng kỳ năm 2016; bình quân năm 2017 tăng 1,40% so với năm 2016. Tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam năm 2017 đạt mức kỷ lục, vượt 213,77 tỷ USD, tăng 21,1% so với năm trước, đây là mức tăng cao nhất trong nhiều năm qua. Cả nước xuất siêu hàng hóa 2,7 tỷ USD, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 28,8 tỷ USD. Năm 2017 cũng là năm bùng nổ lịch sử trên thị trường chứng khoán, với chỉ số VN-Index có lúc đạt gần 1000 điểm, cao nhất trong vòng 10 năm, hàng loạt cổ phiếu vượt đỉnh lịch sử, cùng với khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch ở mức kỷ lục. Đây là kết quả của sự cải thiện cả về ổn định vĩ mô, xử lý nợ xấu và coi trọng hơn khu vực kinh tế tư nhân.

Việt Nam được Trung tâm Nghiên cứu Pew (Mỹ) xếp hạng đứng đầu thế giới về sự thay đổi cuộc sống trong nửa thế kỷ qua: 88% người Việt được khảo sát cho rằng cuộc sống hôm nay tốt đẹp hơn 50 năm trước, cao hơn con số tương ứng của Ấn Độ (69%), Hàn Quốc (68%) và Nhật Bản (65%), Philippines (43%) và mức trung bình 54% của châu Âu, đặc biệt là so với con số chưa tới 37% của Mỹ,…

Việt Nam cũng được đánh giá là một trong số ít quốc gia an toàn nhất thế giới, tuyệt đối không có tình trạng khủng bố đe dọa an ninh quốc gia trong 5 năm liên tiếp (từ năm 2012 - 2016), theo Báo cáo Chỉ số khủng bố toàn cầu (GTI) do Viện Nghiên cứu kinh tế và hòa bình Australia công bố cuối tháng 11/2017.

Còn theo kết quả của cuộc khảo sát trực tuyến Expat Insider 2016, được thực hiện bởi InterNations - mạng lưới cộng đồng những người sinh sống và làm việc ở nước ngoài lớn nhất thế giới, công bố trong quý I/2017, Việt Nam xếp thứ 11/67 quốc gia đáng sống đối với người nước ngoài và đang trở thành một trong những lựa chọn hàng đầu cho người nước ngoài tới du lịch, sống và làm việc.

Trong xếp hạng chỉ số môi trường kinh doanh của WB, năm 2017, Việt Nam đứng ở vị trí 68/190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với năm 2016 (riêng chỉ số tiếp cận điện năng tăng tới 32 bậc so với năm 2016 và tăng 92 bậc so với năm 2013). Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) trong Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2017 - 2018 đã đưa Việt Nam lên thứ hạng 55, tăng 5 bậc so với năm trước và 20 bậc so với cách đây 5 năm. Liên hợp quốc cũng xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo năm 2017 của Việt Nam tăng 12 bậc so với năm trước và điều chỉnh Chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam lên mức 68/157 quốc gia và vùng lãnh thổ (tăng 20 bậc so với
năm 2016).

Những chỉ số trên cho thấy, nền kinh tế Việt Nam đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ, niềm tin, sự hứng khởi và tinh thần đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp đang lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội.  Kết quả phát triển kinh tế năm 2017 là sự khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả đổi mới của Việt Nam, và trên nhiều mặt có sự đóng góp quan trọng trực tiếp của hệ thống ngân hàng với vai trò vừa là nguồn lực, vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước; Đồng thời, chúng cũng tạo tiền đề mở rộng nhu cầu và cơ hội đầu tư mới cho doanh nghiệp, giúp tăng tổng cầu vốn và tính thanh khoản các khoản vay tín dụng ngân hàng trong thời gian tới.

Ngoài ra, cơ hội và kỳ vọng mới của các ngân hàng sẽ được cải thiện và củng cố cùng với quá trình tăng tốc tái cơ cấu và hiện đại hóa ngành Ngân hàng, chủ động và tuân thủ các cam kết hội nhập quốc tế…

 

Những thách thức và giải pháp thích ứng cần có

Thách thức của ngành Ngân hàng năm 2018 và thời gian tới trước hết xuất phát từ yêu cầu tiếp tục cải thiện khả năng kiểm soát nợ xấu, nợ đọng, sở hữu chéo, các rủi ro và bất cập trong quản trị ngân hàng.

Tính đến 31/12/2016, tỷ lệ nợ xấu đã bán cho VAMC, chưa xử lý chiếm 5,8%/tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 11/2017 về mức 2,3% tổng dư nợ tín dụng. Nếu tính cả nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu chung là 7,91%/tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế, giảm đáng kể so với mức nợ xấu là 10,08% được ghi nhận vào thời điểm cuối năm 2016. Sau khi Nghị quyết 42/2017/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 21/6/2017, có hiệu lực trong năm năm từ ngày 15/8/2017), và Quyết định số 1058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020” (Đề án 1058) được Chính phủ ban hành ngày 19/7/2017, việc thu giữ tài sản và bảo vệ chủ nợ của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) có nhiều chuyển động tích cực so với thu giữ trên cơ sở Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm. Trong 10 tháng đầu năm 2017, VAMC đã thu hồi được 16.000 tỉ đồng, trong đó, VAMC đã phối hợp với các TCTD thu hồi được 5.000 tỉ đồng nợ xấu chỉ trong 2 tháng sau khi Nghị quyết 42 có hiệu lực; còn nếu tính lũy kế từ năm 2013 đến nay, VAMC đã phối hợp với các TCTD xử lý khoảng 66.000 tỉ đồng nợ xấu, chiếm gần 23% tổng số nợ xấu VAMC đã mua trong bốn năm qua. Nếu sang năm 2018, VAMC được cấp đủ 5.000 tỉ đồng và đạt 10.000 tỉ đồng vào năm 2020 thì nội lực của tổ chức này sẽ càng mạnh thêm để giúp các TCTD xử lý nợ xấu.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hệ số an toàn vốn (CAR) của toàn hệ thống ngân hàng năm 2017 vẫn giảm so với đầu năm do tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn (hệ số CAR của toàn hệ thống đến 31/8/2017 là 12,37%, giảm 0,47% so với đầu năm, trong đó của nhóm NHTM Nhà nước chỉ ở mức 9,69%, giảm 0,23% so với đầu năm, còn nhóm NHTMCP là 11,12%, giảm 0,68%).

Thách thức của ngành Ngân hàng cũng đến từ vai trò và nhiệm vụ nặng nề mà Ngành phải đảm nhận trong hỗ trợ phát triển kinh tế chung của đất nước, cùng với xu hướng phát triển nhanh chóng của công nghệ ngân hàng trong bối cảnh bùng nổ cách mạng công nghiệp 4.0 và gia tăng sức cạnh tranh gắn với đẩy nhanh tiến trình mở cửa, tự do hóa tài chính-tiền tệ.

Theo kế hoạch được Quốc hội giao năm 2018, Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương của cả nước phấn đấu đạt GDP tăng 6,7%, tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%; bội chi NSNN ở mức 3,7% GDP; Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 8 - 10%, nhập siêu dưới 3% tổng kim ngạch xuất khẩu; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng khoảng 10%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 33 - 34% GDP, trong đó, vốn đầu tư tư nhân chiếm 41% tổng đầu tư phát triển toàn xã hội; thành lập mới 135 nghìn doanh nghiệp; năng suất lao động xã hội tăng trên 6%; tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP đạt trên khoảng 46%; có ít nhất 52% huyện và 37% xã đạt chuẩn nông thôn mới; thu hút khoảng 15 triệu lượt khách du lịch quốc tế. Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) giảm 1 - 1,5%, riêng các huyện nghèo giảm 4%; giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống dưới 4%; đưa Việt Nam vào nhóm ASEAN - 4 về năng lực cạnh tranh và môi trường kinh doanh…

Trong bối cảnh đó, những nhiệm vụ đặt ra là nặng nề cho ngành Ngân hàng, khi mà hệ thống này vẫn là kênh dẫn vốn chủ yếu cho nền kinh tế và gánh trên vai nhiều áp lực trách nhiệm xã hội chung. Chúng đòi hỏi toàn Ngành phải quán triệt tinh thần chỉ đạo của NHNN là “chủ động, an toàn, linh hoạt, hiệu quả”, tiếp tục tăng cường phối hợp triển khai đồng bộ của Ngành với các Bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện các giải pháp của năm 2018 về ưu tiên kiểm soát lạm phát, đi đôi với tích cực tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh theo chủ trương của Chính phủ và thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, cũng như các sản phẩm, dịch vụ đa dạng của ngân hàng hiện đại với chi phí hợp lý nhất; Thường xuyên rà soát áp dụng các biện pháp khai thác nguồn vốn, quản lý chất lượng tăng trưởng, tiết giảm chi phí làm cơ sở điều chỉnh giảm lãi suất cho vay; góp phần tích cực vào việc cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp trong thời gian tới…

Hơn nữa, về triển vọng, “Cách mạng công nghiệp 4.0” (CMCN 4.0) đang và sẽ tác động toàn diện tới đời sống kinh tế xã hội, thay đổi nhận thức và thói quen, năng lực của mọi cá nhân, doanh nghiệp, quốc gia và toàn cầu; sẽ xuất hiện nhiều năng lực, cơ hội và mô hình kinh doanh mới, cùng với sự biến mất những sở trường, cơ hội cũ, lợi thế kinh doanh và năng lực cũ. Đây là cơ hội rất quý giá để Việt Nam nhanh chóng đón bắt, tiến thẳng vào lĩnh vực công nghiệp mới, tranh thủ các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến để đẩy nhanh hơn tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thu hẹp khoảng cách phát triển. Tuy nhiên, các doanh nghiệp, trong đó có hệ thống ngân hàng, sẽ đối diện với không ít áp lực đòi hỏi trang bị lại cơ sở vật chất - kỹ thuật và các kỹ năng mới, điều chỉnh phương thức thiết kế, tiếp thị và phân phối sản phẩm, dịch vụ; tăng cường kiểm soát an ninh mạng và bảo mật dữ liệu... Khi thời kỳ ngân hàng số, mobile banking và internet banking lên ngôi, các mạng lưới và nhân sự ngân hàng truyền thống sẽ dần thu hẹp. Đồng thời, yêu cầu đối với chất lượng nguồn nhân lực cũng thay đổi, đòi hỏi phải thiết kế chương trình, nội dung đào tạo phù hợp nhu cầu thực tế và xu hướng phát triển chung của hoạt động ngân hàng.

Theo NHNN, nhu cầu nhân lực chất lượng cao ngành tài chính ngân hàng vào năm 2020 là trên 120 nghìn người, tăng gấp hai lần so với đầu năm 2017. Trong khi đó, hiện tại, hầu như các ngân hàng đều phải đào tạo lại, hoặc bồi dưỡng các kỹ năng cho sinh viên sau khi ra trường để đáp ứng yêu cầu công việc. Sự khan hiếm nguồn nhân lực tài chính, ngân hàng chất lượng cao đang và sẽ tiếp tục là thách thức của Ngành thời gian tới.

Để khai thác các cơ hội và vượt qua các thách thức, ngành Ngân hàng cần tiếp tục triển khai mạnh mẽ Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-CP và Nghị quyết số 35/NQ-CP và Nghị quyết số 01/NQ-CP Chính phủ đã ban hành ngày 01 tháng 01 năm 2018, về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH và dự toán NSNN năm 2018. Theo đó, Chính phủ đề ra 9 nhóm nhiệm vụ, giải pháp gồm tổng cộng 242 đầu việc cụ thể được giao cho từng cấp Bộ, ban, ngành cơ quan TW và địa phương, trong đó có toàn hệ thống ngân hàng thực hiện, với phương châm hành động “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả” và xác định trọng tâm chỉ đạo điều hành là: Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tạo chuyển biến rõ nét, thực chất trong thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; khuyến khích đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực hiện quyết liệt cải cách hành chính; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật và sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành ở tất cả các ngành, các cấp. Đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Chú trọng các nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội; thực hành dân chủ và công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu; bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước.

Đặc biệt, trong năm 2018, theo chỉ đạo của Thủ tướng tại Hội nghị trực tuyến Triển khai nhiệm vụ Ngân hàng năm 2018 do NHNN tổ chức chiều ngày 9/1/2018, ngành Ngân hàng cần chủ động điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá hiệu quả và kết hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác để  thực hiện cho được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức thấp và thúc đẩy tăng trưởng trong năm 2018 cũng như trong trung và dài hạn; Quản lý chặt chẽ thị trường ngoại tệ, thị trường vàng, không để xảy ra những biến động bất lợi; tiếp tục tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; duy trì sự ổn định của thị trường tài chính, thúc đẩy thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản và thúc đẩy cơ cấu lại và tăng trưởng kinh tế lành mạnh trên cơ sở tín dụng được mở rộng hợp lý và tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên phát triển và tạo động lực cho tăng trưởng, quan tâm phát triển thị trường tín dụng tiêu dùng, tài chính vi mô, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo cho vay cân bằng và công bằng trong khu vực các lĩnh vực của nền kinh tế; tập trung nguồn lực thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu. Tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD lành mạnh củng cố, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động, phấn đấu Việt Nam có một số ngân hàng có quy mô ngang tầm với các ngân hàng hàng đầu trong khu vực; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, thanh tra, giám sát của NHNN để phát hiện kịp thời và hạn chế tối đa những sai phạm, nhất là những sai phạm nghiêm trọng trong hoạt động tiền tệ, ngân hàng, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với hệ thống ngân hàng; Chủ động nâng cấp về vốn, quản trị rủi ro và giám sát tài chính cho hệ thống ngân hàng trong nước theo đúng tiêu chuẩn quốc tế; quan tâm đặc biệt đến công tác cán bộ và vấn đề rủi ro đạo đức để có biện pháp quản lý hữu hiệu, hạn chế tối đa những sai phạm do cố ý làm trái gây ra. Phát triển, ứng dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại và chú trọng công tác đảm bảo an ninh, an toàn để hạn chế những rủi ro, tiêu cực, tội phạm từ mặt trái của công nghệ số. Tiếp tục triển khai Đề án thanh toán không dùng tiền mặt; triển khai thực hiện Đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo. Phải có thể chế để quản lý để đảm bảo an toàn. Đẩy mạnh công tác truyền thông và làm tốt công tác giáo dục tài chính cộng đồng để nâng cao nhận thức và khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ tài chính ngân hàng an toàn, hiệu quả. Thúc đẩy các dự án nghiên cứu tăng khả năng ứng phó của hệ thống ngân hàng đối với rủi ro hệ thống. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận dễ dàng hơn với dịch vụ ngân hàng. Tạo điều kiện đầu tư kinh doanh phát triển, khuyến khích khởi nghiệp nâng cao sức cạnh tranh.

Với tinh thần đó, toàn Ngành cần nhất quán và kiên trì thực hiện Chỉ thị số 02/CT-NHNN về tăng cường bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD, xử lý vi phạm về sở hữu vốn của cổ đông lớn, sở hữu chéo, đầu tư chéo và xử lý nợ xấu; Thúc đẩy hiện đại hóa hoạt động và tạo điều kiện cho các TCTD sáp nhập, hợp nhất, mua lại và khuyến khích các nhà đầu tư có đủ điều kiện tham gia cơ cấu lại TCTD, nhằm xử lý những đơn vị yếu kém, tăng quy mô và nâng cao năng lực cạnh tranh. NHNN cần triển khai những quy định khắt khe hơn nữa, tiếp cận nhanh hơn với các chuẩn mực quản trị ngân hàng thế giới, cũng như áp dụng một số biện pháp can thiệp khác cần thiết, phù hợp với cơ chế thị trường, trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi người gửi tiền, tăng cường số hóa và quản trị rủi ro (nhất là rủi ro công nghệ và rủi ro đạo đức); ngăn chặn sự chi phối của lợi ích nhóm và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống, sự lành mạnh của nền tài chính-tiền tệ quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô cả nước nói chung…

Yêu cầu bảo đảm an ninh tài chính, tiền tệ, an ninh mạng đòi hỏi các ngân hàng nắm bắt, thích nghi và thay đổi kịp thời với xu thế công nghệ mới, định hình lại mô hình kinh doanh, quản trị, tăng đầu tư công nghệ, nâng cấp trung tâm dữ liệu dự phòng, hướng tới việc xây dựng các ngân hàng kỹ thuật số thông minh; phát triển các kênh phân phối mới, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, mang tính tích hợp cao; tăng doanh thu của ngân hàng bán lẻ nhờ vào web, điện thoại di động hay ứng dụng trên máy tính bảng; giảm dần vai trò, mạng lưới và nhân công của các chi nhánh. Cơ chế kiểm soát rủi ro dựa trên các phương pháp truyền thống, cơ chế giám sát ngân hàng ở mỗi ngân hàng và toàn hệ thống cũng cần được đổi mới và hiện đại hóa cho phù hợp và đòi hỏi nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin, cải thiện năng lực xử lý các thách thức về vấn đề bảo mật thông tin và an ninh mạng tài chính, an ninh công nghệ thông tin, các loại tội phạm công nghệ cao và giữ vững quyền kiểm soát hệ thống của các ngân hàng quốc gia; xây dựng văn hóa kinh doanh phù hợp, phát triển và nâng cao sức cạnh tranh của các dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, tiện ích cao, chất lượng, củng cố thương hiệu và uy tín....để tồn tại và phát triển bền vững

Đồng thời, cần tăng cường trách nhiệm chủ động cung cấp thông tin định kỳ và không định kỳ đầy đủ, cần thiết theo quy định; chủ động phối hợp nhận diện và loại bỏ thông tin có nội dung sai lệch, độc hại, gây nhiễu nhận thức và thông tin lành mạnh thị trường tài chính - tiền tệ; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng, phân tích, đánh giá, phát hiện, cảnh báo sớm và xử lý kịp thời các rủi ro, vi phạm pháp luật trong hoạt động của từng TCTD, cũng như của hệ thống các TCTD về an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật về tiền tệ, ngân hàng; phát hiện và kiến nghị cấp có thẩm quyền chấn chỉnh, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách của Nhà nước và ngành Ngân hàng; tập trung đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động nghiệp vụ của NHNN gắn với đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường công tác bảo đảm an ninh và an toàn thông tin mạng.

Hơn nữa, cần tăng cường hợp tác giữa NHNN, NHTM với các cơ quan báo chí, truyền thông trong và ngoài Ngành, với cơ quan quản lý báo chí để truyền thông rộng rãi, đầy đủ và định hướng dư luận đúng đắn về điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, xử lý kịp thời các thông tin chưa chính xác liên quan đến hoạt động ngân hàng, hình thành một mạng lưới truyền thông thống nhất từ trung ương đến các địa phương, giữa NHNN với các TCTD; Các NHNN chi nhánh địa phương chủ động thông tin, tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật, chủ trương chỉ đạo của Chính phủ và NHNN về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, kết quả hoạt động của ngành Ngân hàng và của các TCTD trên địa bàn, các chính sách tín dụng của Chính phủ và NHNN… để tạo sự đồng thuận, ủng hộ của dư luận đối với hoạt động của ngành Ngân hàng.

Trước mắt, NHNN cần tập trung rà soát, hoàn thiện các cơ chế, quy chế, quy định của NHNN cũng như các quy trình, quy định nội bộ của từng TCTD, đảm bảo chặt chẽ, minh bạch, xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân, từng bộ phận trong các hoạt động nghiệp vụ; nâng cao phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, nâng cao tinh thần cảnh giác, ngăn ngừa mọi diễn biến phức tạp có thể xảy ra ảnh hưởng đến cán bộ, tài sản và uy tín hoạt động ngân hàng. Coi trọng trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị trong công tác đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và phát hiện kịp thời sai phạm trong các giao dịch hoạt động ngân hàng. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hệ thống công nghệ thông tin, điều kiện phương tiện làm việc, đảm bảo phục vụ tốt cho công tác đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng; triển khai áp dụng các thông lệ, chuẩn mực quốc tế ngày càng cao hơn. Tiếp tục phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác phòng ngừa, đấu tranh, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt là tội phạm công nghệ cao. Đẩy mạnh công tác truyền thông để người dân nắm bắt những kiến thức cần thiết về tài chính, ngân hàng, các quy định của pháp luật trong giao dịch ngân hàng, những thủ đoạn của bọn tội phạm, từ đó nâng cao ý thức cảnh giác, chủ động phòng ngừa rủi ro, góp phần đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng. Xây dựng các kịch bản và tập dượt đối phó với các biến cố và khủng hoảng tài chính - ngân hàng nhằm tăng tính chủ động và kỹ năng đối phó với khủng hoảng ở các cấp…

 

1 Hà Nội


  • aA
  • Các chuyên mục:
  • Tạp chí Ngân hàng
CÁC TIN KHÁC
Nhận diện những nhân tố tác động đến hoạt động quản trị công ty của các ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam (số 1)
28/08/2025
Nhân tố tác động tới hiệu quả phòng chống rửa tiền tại các ngân hàng thương mại (số 1)
28/08/2025
Những khởi sắc trong hoạt động ngân hàng năm 2017 (số 24)
28/08/2025
Kinh nghiệm tái cơ cấu ngân hàng và xử lý nợ xấu (số 23)
28/08/2025
Tiếp cận tài chính toàn diện của các nước ASEAN và một số khuyến nghị đối với Việt Nam (số 1)
28/08/2025
Công tác phòng, chống khủng bố, chống tài trợ khủng bố trong ngành Ngân hàng – Yêu cầu quan trọng và cấp bách (số 3-4)
28/08/2025
Tiếp cận vấn đề liên kết thương hiệu trong hoạt động kinh doanh ngân hàng (số 2)
28/08/2025
Mô hình chính phủ kiến tạo trong phát triển nền kinh tế xanh tại Việt Nam (số 6)
28/08/2025
Phát triển tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (số 24)
28/08/2025
Ngân hàng qua điện thoại cho người có thu nhập thấp – khả năng thực hiện tại Đồng bằng sông Cửu Long (số 23)
28/08/2025
Đang hiển thị 1 đến 10 của 1028
  • 1
  • 2
  • 3
  • 103
Giới thiệu NHNN
  • Sơ lược quá trình thành lập và phát triển
  • Chức năng nhiệm vụ
  • Ban lãnh đạo đương nhiệm
  • Lãnh đạo NHNN qua các thời kỳ
CPI
Lãi Suất
Dự trữ bắt buộc
Hoạt động thị trường tiền tệ
  • Nghiệp vụ thị trường mở
  • Thông tin chào bán tín phiếu NHNN
  • Đấu thầu Tín phiếu kho bạc nhà nước
    • Thông báo đấu thầu
    • Kết quả đấu thầu
  • Giấy mời tham gia đấu thầu vàng
Cải cách hành chính
  • Tin tức CCHC
  • Bản tin CCHC nội bộ
  • Văn bản CCHC
  • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
  • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
  • Danh mục điều kiện kinh doanh
  • Danh mục báo cáo định kỳ
  • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
  • Đào tạo ISO
Dịch vụ công trực tuyến
Hoạt Động Khác
  • Đầu tư, đấu thầu
    • Thông tin đấu thầu
    • Các dự án đang chuẩn bị đầu tư
    • Các dự án đang triển khai
    • Các dự án đã hoàn tất
  • Tài chính vi mô tại Việt Nam
  • Ổn định tài chính
    • Giới thiệu
      • Ổn định tài chính và vai trò của ổn định tài chính
      • Vai trò của NHTW đối với ổn định tài chính
    • Báo cáo chuyên đề về ổn định tài chính
  • Hợp tác quốc tế
    • Quan hệ với ADB
    • Quan hệ với IMF
    • Quan hệ với IBEC - IIB
    • Quan hệ với WB
    • Quan hệ với AIIB
    • Quan hệ với BIS
    • Quan hệ song phương
      • Tổng quan về hoạt động hợp tác song phương
      • Khu vực châu Á
      • Khu vực châu Âu
      • Khu vực châu Mỹ
      • Khu vực châu Phi
      • Khu vực châu Đại Dương
    • Quan hệ đa phương
      • Tổng quan về hoạt động hợp tác đa phương
      • Giới thiệu tổ chức APEC
      • Giới thiệu tổ chức ASEM
      • Giới thiệu tổ chức WTO
      • Giới thiệu tổ chức ASEAN
      • Giới thiệu SEACEN
  • Công nghệ thông tin
    • Chiến lược phát triển và ứng dụng CNTT trong hoạt động ngân hàng
    • Hỗ trợ kỹ thuật
    • An toàn thông tin
      • Danh sách đầu mối ứng cứu sự cố ANTT
      • Hoạt động mạng lưới ứng cứu sự cố ANTT
      • Văn bản chính sách ANTT
      • Tài liệu tuyên truyền nâng cao nhận thức ANTT
  • Hoạt động khoa học công nghệ
    • Các chương trình đề tài
    • Kết quả các chương trình, đề tài
    • Hợp tác nghiên cứu
    • Dịch vụ khoa học công nghệ
    • Chiến lược phát triển ngành ngân hàng
  • Tổ chức cán bộ
    • Tuyển dụng
  • Thi đua khen thưởng
    • Văn bản về thi đua khen thưởng
    • Công tác thi đua khen thưởng
    • Lấy ý kiến nhân dân đối với tập thể, cá nhân được đề nghị khen thưởng cấp nhà nước
  • Hệ thống báo cáo phục vụ điều hành CSTT quốc gia
  • Hoạt động Tổ chức tín dụng
  • Hoạt động đoàn thể
  • Tài chính kế toán
    • Chế độ kế toán của NHNN
      • Văn bản quy phạm pháp luật
      • Văn bản hướng dẫn
    • Quản lý tài chính, tài sản của NHNN
      • Văn bản
      • Tình hình triển khai
    • Chế độ kế toán của TCTD
      • Văn bản quy phạm pháp luật
      • Văn bản hướng dẫn
    • Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản
Cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
  • Các chính sách của NHNN
  • Các chính sách của TCTD
  • Giải đáp chính sách
  • Hỗ trợ pháp lý cho DNVVN
NHNN với Quốc hội và cử tri
  • Thống đốc NHNN trả lời đại biểu Quốc hội và cử tri
  • Thống đốc NHNN trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội
  • Thống đốc trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri
    • Thống đốc trả lời kiến nghị cử tri theo tỉnh, thành phố
    • Thống đốc trả lời kiến nghị cử tri theo nhóm vấn đề
  • Hoạt động về công tác Quốc hội
  • Báo cáo, giải trình
    • Báo cáo của NHNN
    • Giải trình của NHNN
  • Tài liệu tham khảo
    • Nghị quyết của Quốc hội
    • Báo cáo tại các Kỳ họp của Quốc hội
    • Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
  • Liên hệ
Công bố thông tin của Doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành Ngân hàng
  • Danh sách Doanh nghiệp do NHNN quản lý và phần vốn góp tại Doanh nghiệp
  • Thông tin định kỳ
    • Chiến lược phát triển của doanh nghiệp
    • Kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển 05 năm của doanh nghiệp
    • Kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển hằng năm của doanh nghiệp
    • Báo cáo đánh giá về kết quả thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh hằng năm và 03 năm gần nhất tính đến năm báo cáo
    • Báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ công ích và trách nhiệm xã hội khác (nếu có)
    • Báo cáo thực trạng quản trị và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp
    • Báo cáo tình hình đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp
    • Quyết định giao chỉ tiêu đánh giá hằng năm
    • Kế hoạch giám sát các doanh nghiệp
    • Báo cáo tài chính 06 tháng và báo cáo tài chính năm của doanh nghiệp
    • Báo cáo chế độ tiền lương, tiền thưởng của doanh nghiệp
    • Báo cáo tình hình thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp hằng năm
  • Thông tin bất thường
Hệ thống các TCTD
  • Ngân hàng
    • Ngân hàng thương mại
      • NHTM Nhà nước
      • NHTM Cổ phần
      • Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
      • Ngân hàng liên doanh
    • Ngân hàng Chính sách xã hội
    • Ngân hàng Hợp tác xã
  • TCTD phi ngân hàng
    • Công ty tài chính
    • Công ty cho thuê tài chính
    • TCTD phi ngân hàng khác
  • Tổ chức tài chính vi mô
  • Quỹ tín dụng nhân dân
  • Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
  • Văn phòng đại diện
Chương trình, chính sách tín dụng trọng điểm
  • Cơ chế, chính sách tín dụng, các chương trình, gói tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
    • Văn bản chỉ đạo, điều hành
    • Kết quả triển khai
  • Chương trình khác
    • Kết quả triển khai
    • Văn bản chỉ đạo, điều hành
  • Chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn
    • Văn bản chỉ đạo, điều hành
    • Kết quả triển khai
Phổ biến kiến thức
  • Danh mục thuật ngữ
  • Các nội dung phổ biến kiến thức cộng đồng
    • Tiền Việt Nam - những điều bạn nên biết
      • Phát hành và điều hòa tiền mặt
      • Tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông
      • Tiền đình chỉ lưu hành
      • Phân biệt tiền thật, tiền giả
      • Bảo vệ tiền Việt Nam
    • Các hoạt động thanh toán qua ngân hàng
      • Một số thông tin về thẻ ngân hàng
      • Những điều cần biết khi giao dịch qua ngân hàng điện tử
Tiếp cận thông tin
  • Danh mục thông tin công khai
  • Thông tin về đầu mối cung cấp thông tin cho công dân
  • Địa chỉ tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin qua mạng điện tử
  • Các mẫu phiếu sử dụng trong cung cấp thông tin
  • Hướng dẫn yêu cầu cung cấp thông tin
Thanh Tìm kiếm
TIN VIDEO
Dấu ấn ngành Ngân hàng trong Triển lãm thành tựu đất nước 80 năm hành trình Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Dấu ấn ngành Ngân hàng trong Triển lãm thành tựu đất nước 80 năm hành trình Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TIN ẢNH
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
TIN ẢNH
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
Icon

Danh bạ liên hệ

Icon

Phản ánh kiến nghị

Icon

Đường dây nóng

Calendar Icon LỊCH LÀM VIỆC CỦA BAN LÃNH ĐẠO Microphone Icon CÁC BÀI PHÁT BIỂU Chart Icon CPI Percentage Icon LÃI SUẤT Money Icon DỰ TRỮ BẮT BUỘC Graduation Icon GIÁO DỤC TÀI CHÍNH Newspaper Icon THÔNG CÁO BÁO CHÍ ẤN PHẨM PHÁT HÀNH
Ngân hàng
ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP NHIỆM KỲ 2025-2030 Chuyển đổi số
Danh Bạ Liên Hệ Phản Ánh Kiến Nghị Đường Dây Nóng
© cổng thông tin điện tử ngân hàng nhà nước việt nam
Địa chỉ: 49 Lý Thái Tổ - Hoàn Kiếm - Hà Nội
Thường trực Ban biên tập: (84 - 243) 266.9435
Email: thuongtrucweb@sbv.gov.vn rss
NCSC Certification
Số điện thoại tổng đài Ngân hàng Nhà nước: (84 - 243) 936.6306
Đầu mối tiếp nhận thông tin về sự cố an toàn thông tin: số điện thoại: (+84)84.859.5983, email: antt@sbv.gov.vn
IPv6 Ready
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Digital Bankingtimes

logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan
Cổng thông tin điện tử NHNN
Thời báo Ngân Hàng
Tạp chí Ngân hàng

Digital Bankingtimes

Digital Banking Times Logos