Gần một năm sau khi cuộc chiến tranh Nga – Ukraine bắt đầu, triển vọng kinh tế của khu vực châu Âu (EU) đang trở nên sáng sủa hơn. Bước sang năm 2023, với những dấu hiệu khả quan hơn, kinh tế châu Âu hiện được kỳ vọng sẽ thoát khỏi suy thoái đã được dự báo trước đó. Lần đầu tiên sau một năm, các triển vọng tăng trưởng năm 2023 của khu vực được điều chỉnh cao hơn trong khi lạm phát được dự báo thấp hơn.
Năm 2022, EU đã tìm cách nỗ lực chuyển hướng khỏi các mặt hàng năng lượng của Nga. Các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ cùng với các biện pháp ứng phó của doanh nghiệp và người tiêu dùng trước cuộc khủng hoảng năng lượng đã thúc đẩy khả năng phục hồi của nền kinh tế.
Vào tháng 11/2022, nền kinh tế EU đã đứng trước một bước ngoặt. Khi các động lực tái mở cửa suy yếu dần, cú sốc về thương mại do giá dầu tăng cao đã tác động mạnh đến nền kinh tế, làm xói mòn thu nhập thực tế của các hộ gia đình và ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Những yếu tố này cùng với việc thắt chặt chính sách tiền tệ và sự hỗ trợ từ bên ngoài suy yếu, khiến cho nền kinh tế EU được cho là sẽ rơi vào suy thoái (theo Ủy ban châu Âu/EC, 2022).
Tuy nhiên, dự báo mới đây nhất của Ủy ban châu Âu đã đánh giá lại triển vọng toàn cầu, tốc độ thắt chặt tiền tệ, vai trò hỗ trợ chính sách đối với các hộ gia đình và một số giả định kỹ thuật để có những điều chỉnh lạc quan hơn. Theo đó, lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh của Nga tại Ukraine, EC đã nâng triển vọng kinh tế năm 2023 châu Âu, trong khi giảm dự báo về lạm phát. Điều này giúp nền kinh tế khu vực sẽ không bị rơi vào một cuộc suy thoái như những đánh giá trước đó. Đây cũng là lần đầu tiên Ủy ban châu Âu rút lại dự báo về suy thoái kể từ khi cơ quan này bắt đầu đưa ra các dự báo cho triển vọng kinh tế châu Âu và khu vực đồng euro vào tháng 5/1998.
EU đã đạt được tiến bộ ấn tượng trong việc từ bỏ các mặt hàng năng lượng của Nga và tăng cường khả năng phục hồi trước những cú sốc bất lợi. Nhờ điều kiện thời tiết thuận lợi, hạn chế nhu cầu và tăng hiệu suất, mức tiêu thụ khí đốt của EU đã giảm khoảng 25% so với mức trung bình của cùng tháng trong 5 năm qua. Việc tăng cường nỗ lực để đa dạng hóa các nguồn cung cũng đã mang lại kết quả đáng kể, thể hiện rõ qua sự sụt giảm mạnh tỷ trọng khí đốt theo đường ống dẫn từ Nga trong tổng lượng khí đốt nhập khẩu của EU; cùng với sự gia tăng mạnh mẽ trong nhập khẩu khí hóa lỏng (LNG) vận chuyển bằng đường biển. Những diễn biến này đã khiến mức dự trữ khí đốt ở mức khoảng 75% sức chứa, chỉ thấp hơn một chút so với mức ghi nhận vào đầu mùa nóng và cao hơn mức trung bình theo mùa. Điều này hàm ý nhu cầu tái nạp thấp hơn và giảm bớt lo ngại về việc phân phối khí đốt trong tương lai.
Trong nửa cuối năm 2022, tăng trưởng kinh tế của khu vực mạnh hơn dự đoán đã cải thiện vị thế khởi đầu cho năm 2023. Trong quý III, các tác động đối với tăng trưởng GDP cũng nhẹ hơn so với ước tính ban đầu. Theo ước tính sơ bộ của Eurostat, hoạt động kinh tế ở EU chỉ có phần đình trệ thay vì dự báo sụt giảm 0,5% trước đó. Những kết quả này đã cải thiện dự báo tăng trưởng vào năm 2023 của EU thêm 0,4 điểm phần trăm lên 0,3% (tăng 0,5 điểm phần trăm lên 0,4% ở khu vực đồng euro). Hơn nữa, trong những tháng gần đây, niềm tin vào nền kinh tế của các hộ gia đình và doanh nghiệp đã bắt đầu phục hồi, mặc dù ở mức thấp.
Giá hàng hóa năng lượng giảm xuống thấp hơn mức trước chiến tranh và duy trì ở mức thấp hơn ước tính trước đó. Những diễn biến gần đây về cung và cầu đã thay đổi triển vọng giá năng lượng ở châu Âu. Giá khí đốt tự nhiên ở châu Âu thấp hơn khoảng 1/2 so với thời điểm Dự báo mùa thu năm 2022 nhưng cũng thấp hơn tại thời điểm Dự báo mùa xuân năm 2022, và thị trường kỳ vọng chúng vẫn ổn định trong thời gian dự báo. Giá điện cũng đã giảm đáng kể kể từ mùa thu.
Thị trường lao động EU dự kiến sẽ vẫn còn khó khăn. Trong quý 3/2022, việc làm tiếp tục tăng, tình trạng suy giảm thị trường lao động không thay đổi và tỷ lệ việc làm trống chỉ giảm nhẹ. Đến tháng 12/2022, tỷ lệ thất nghiệp của khu vực ở mức thấp nhất là 6,1%. Trong tháng 01/2023, Chỉ số Kỳ vọng Việc làm (EEI) đã tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 6/2022 và kết quả khảo sát cho thấy tình trạng thiếu lao động giảm nhẹ. Sự chậm lại tạm thời của hoạt động có thể ảnh hưởng đến việc làm, nhưng những khó khăn trong tuyển dụng có thể thúc đẩy các công ty có các biện pháp tìm kiếm lao động dự phòng. Theo đó, việc tỷ lệ thất nghiệp dự kiến tăng nhẹ vào đầu năm 2023 phần lớn sẽ chỉ là tạm thời.
Tiền lương danh nghĩa được dự đoán sẽ tăng mạnh hơn so với trước đại dịch. Thị trường lao động tiếp tục thắt chặt, mức lương tối thiểu cao hơn ở một số quốc gia thành viên và các nỗ lực bù đắp tổn thất do lạm phát đã gây áp lực lên tiền lương, đặc biệt là trong bối cảnh rủi ro suy thoái kinh tế đang giảm dần. Hơn nữa, tiền lương của nhiều lao động vẫn phản ánh các thỏa thuận trước khi lạm phát gia tăng vào năm ngoái, điều này cho thấy tác động chậm và đáng ngạc nhiên của lạm phát trong quá khứ lên tiền lương.
Việc thắt chặt chính sách tiền tệ được cho là sẽ mạnh hơn so với giả định trước đây. Kể từ bước ngoặt trong lập trường chính sách tiền tệ vào tháng 12/2021, ECB đã tăng lãi suất chính sách thêm 300 điểm cơ bản. Điều này đã nâng cao kỳ vọng của thị trường về lãi suất ngắn hạn, trong khi lợi suất trái phiếu chính phủ dài hạn vẫn ở mức giả định trước đó. Tốc độ tăng trưởng cho vay hàng năm của ngân hàng đối với khu vực tư nhân vẫn ở mức dương nhưng đã giảm tốc hơn trong tháng 12/2022. Ngược lại với triển vọng thắt chặt tín dụng hơn, các điều kiện tài chính trên thị trường đã phần nào được nới lỏng nhờ định giá tăng, điều này có thể cho thấy các nhà đầu tư kỳ vọng một giai đoạn thắt chặt khá ngắn.
Triển vọng đối với môi trường bên ngoài của EU vẫn còn yếu. Sau phần lớn thời gian đình trệ nửa đầu năm 2022, hoạt động kinh tế toàn cầu đã dần phục hồi trong quý III, nhưng các dấu hiệu suy yếu mới đã xuất hiện vào cuối năm ngoái. Các chỉ số khảo sát vẫn phù hợp với đà giảm vào năm 2023, đặc biệt là ở các nền kinh tế phát triển. Việc Trung Quốc từ bỏ chính sách zero-COVID và mở cửa trở lại mạnh mẽ có khả năng cải thiện triển vọng tăng trưởng của nước này, bất chấp những gián đoạn ngắn hạn có thể xảy ra.
Tác động tăng trưởng tích cực của việc xử lý nhanh chóng cú sốc về thương mại sẽ phần nào được giảm bớt bởi việc thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ hơn. Đặc biệt, các lĩnh vực nhạy cảm nhất với các điều kiện tài chính (ví dụ: xây dựng) sẽ chịu tác động. Nhìn chung, GDP được dự báo sẽ trì trệ trong quý I thay vì sụt giảm như dự báo vào mùa thu. Tăng trưởng GDP năm 2023 của châu Âu được dự đoán là 0,8%, khu vực đồng euro là 0,9% - cao hơn tương ứng 0,5 và 0,6 điểm phần trăm so với các dự báo trước đó, chủ yếu là do chuyển nguồn cao hơn. Vào năm 2024, mứccác dự báo trước đó. Mức tăng trưởng cho năm 2024 dự kiến là 1,6% tại châu Âu và 1,5% ở khu vực đồng euro.
Lạm phát giá tiêu dùng của khu vực dự kiến sẽ tiếp tục giảm với tốc độ nhanh hơn một chút vào năm 2023. Theo ước tính của Eurostat, lạm phát ở khu vực đồng euro đã giảm tháng thứ ba liên tiếp vào tháng 1, trong khi lạm phát cơ bản tăng nhẹ, phần nào phản ánh tác động của lạm phát giá năng lượng trong quá khứ trên các mặt hàng cốt lõi. Giá hàng hóa năng lượng giảm và các điều kiện tài chính chặt chẽ hơn sẽ làm giảm áp lực lạm phát.
Các rủi ro đối với triển vọng cân bằng hơn. Trong khi sự không chắc chắn xung quanh dự báo vẫn còn cao, rủi ro đối với tăng trưởng nhìn chung là cân bằng. Nhu cầu nội địa có thể tăng mạnh hơn nếu việc giảm giá khí đốt bán buôn tác động mạnh hơn đến giá tiêu dùng. Tuy nhiên, không thể loại trừ khả năng tình thế đảo ngược trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị. Nhu cầu bên ngoài cũng có thể được thúc đẩy mạnh mẽ hơn từ việc Trung Quốc mở cửa trở lại.
Rủi ro đối với lạm phát phần lớn vẫn liên quan đến sự phát triển của thị trường năng lượng, phản ánh một số rủi ro đối với tăng trưởng. Đặc biệt là vào năm 2024, rủi ro tăng giá đối với lạm phát chiếm ưu thế, vì áp lực giá cả có thể lan rộng hơn và cực đoan hơn nếu tăng trưởng tiền lương ở tỷ lệ trên trung bình.
MN (theo CEPR)