Trong năm 2017, trên cơ sở bám sát Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã triển khai đồng bộ các giải pháp chính sách tiền tệ (CSTT) và hoạt động ngân hàng, đạt được các mục tiêu đề ra từ đầu năm, qua đó góp phần quan trọng trong kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý đồng thời đảm bảo an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD). Cụ thể:
1. Kết quả điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng năm 2017:
Một là, NHNN đã thực hiện đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT để ổn định thị trường tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát, tạo điều kiện thuận lợi để TCTD giảm lãi suất cho vay và tăng cường khả năng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đạt 6,81% (cao nhất trong 10 năm và cao hơn mục tiêu 6,7%). Ước cả năm, tổng phương tiện thanh toán (M2) tăng khoảng 16%, sát với chỉ tiêu định hướng đề ra khoảng 16-18% từ đầu năm.
Hai là, tiếp tục tập trung triển khai các giải pháp giảm lãi suất cho vay nhằm góp phần hỗ trợ doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện lãi suất chịu áp lực gia tăng trong 6 tháng đầu năm 2017, NHNN đã nỗ lực điều hành CSTT đảm bảo thanh khoản cho TCTD, duy trì lãi suất liên ngân hàng ở mức hợp lý, góp phần ổn định và giảm mặt bằng lãi suất thị trường. Từ ngày 10/7/2017, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ, trên cơ sở diễn biến lạm phát có chiều hướng tăng chậm và có khả năng kiểm soát theo mục tiêu 4% được Quốc hội đề ra, hoạt động các TCTD diễn biến tích cực, NHNN đã giảm 0,25%/năm các mức lãi suất điều hành; giảm 0,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên. Kết quả, các TCTD đã giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên; tích cực giảm lãi suất thông qua một số chương trình tín dụng hỗ trợ phát triển doanh nghiệp với lãi suất thấp hơn trần của NHNN (thấp hơn khoảng 0,5-1%/năm); giảm lãi suất một số chương trình cho vay trung dài hạn đối với lĩnh vực ưu tiên xuống còn khoảng 8%/năm; triển khai các gói tín dụng ngắn hạn và trung dài hạn đa dạng với lãi suất ưu đãi cho các ngành thiết yếu trong phát triển kinh tế và an sinh xã hội; áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn đối với khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, xếp hạng tín nhiệm cao khoảng 4-5%/năm.
Ba là, mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn chất lượng tín dụng, đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn ngân hàng. Nhờ thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, nguồn vốn tín dụng đã được khơi thông và tăng trưởng tốt ngay từ đầu năm, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế (tín dụng đến 31/12/2017 tăng trưởng 18,17% so với cuối năm 2016). Đáng chú ý tín dụng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh (chiếm khoảng 80% tổng dư nợ), trong đó tín dụng đối với một số lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ diễn biến tích cực. Tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như kinh doanh bất động sản, chứng khoán được kiểm soát đã tăng với tốc độ chậm lại. Cụ thể: Đến cuối tháng 11/2017, tín dụng cho lĩnh vực xuất khẩu tăng 14,03% so với cuối năm 2016; tín dụng đối với doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 20%; tín dụng đối với lĩnh vực công nghiệp ưu tiên tăng 22,13%; Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 11,53%; Dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tăng khoảng 22%....
Bốn là, tỷ giá và thị trường ngoại tệ cơ bản ổn định. NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt tỷ giá trung tâm; trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi dào, điều chỉnh linh hoạt tỷ giá mua ngoại tệ phù hợp với diễn biến thị trường để mua ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước. Đồng thời thực hiện linh hoạt các công cụ CSTT để duy trì chênh lệch lãi suất VND và USD ở mức hợp lý, điều hành thanh khoản tiền đồng để vừa hỗ trợ ổn định tỷ giá khi cần thiết, vừa hỗ trợ thực hiện mục tiêu ổn định lãi suất trên thị trường 1 (huy động của các ngân hàng từ dân cư và tổ chức kinh tế). Theo đánh giá của Bloomberg, đồng Việt Nam là một trong những đồng tiền ổn định nhất Châu Á. Thanh khoản thị trường thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của nền kinh tế được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, hệ thống các TCTD mua ròng ngoại tệ từ tổ chức, cá nhân với khối lượng lớn, từ đó có điều kiện bán lại cho NHNN để bổ sung Dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Năm là, với những giải pháp đồng bộ, linh hoạt quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo Nghị định 24/2012/ NĐ-CP của Chính phủ, đến nay, thị trường vàng tiếp tục diễn biến tương đối ổn định. Từ đầu năm 2017 đến nay, giá vàng trong nước diễn biến tương đối ổn định và biến động trong biên độ hẹp ngay cả khi giá vàng quốc tế diễn biến phức tạp. Nhu cầu vàng miếng trong nền kinh tế ngày càng suy giảm, doanh số mua, bán vàng miếng trong hệ thống duy trì ở mức thấp. Thị trường không xuất hiện các “cơn sốt” vàng miếng; không còn tình trạng đầu cơ, làm giá gây bất ổn đến tỷ giá, thị trường ngoại tệ và sự ổn định kinh tế vĩ mô. Một phần nguồn vốn bằng vàng đã bước đầu được chuyển hóa để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Sáu là, công tác tái cơ cấu và xử lý nợ xấu đạt được những kết quả tích cực. Trong năm 2017, khuôn khổ pháp lý về cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu đã dần được hoàn thiện. NHNN đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” tại Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 (Đề án 1058). Bên cạnh việc xây dựng Đề án 1058, để khắc phục các khó khăn, vướng mắc, bất cập về pháp lý trong quá trình xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của TCTD, NHNN đã trình Chính phủ, Quốc hội xem xét thông qua Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết số 42). Nghị quyết 42 đã tạo lập cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho việc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của các TCTD, tổ chức mua bán nợ xấu. Để triển khai các nhiệm vụ tại Nghị quyết 42 và Quyết định 1058, NHNN đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành các Chị thị, văn bản chỉ đạo triển khai trên toàn hệ thống, đồng thời tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai Nghị quyết số 42 và Quyết định 1058 để quán triệt các đơn vị trong ngành và các TCTD triển khai các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 42 và Đề án 1058, yêu cầu các TCTD xây dựng phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu và kế hoạch xử lý nợ xấu trình NHNN phê duyệt.
Đồng thời, để đảm bảo hoạt động ngân hàng được an toàn, lành mạnh và bền vững hơn, NHNN cũng phối hợp các Bộ, ngành xây dựng và hoàn thiện Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD. Tháng 11 vừa qua, Quốc hội khóa XIV đã chính thức thông qua Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD (có hiệu lực từ ngày 15/01/2018). Việc Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD được Quốc hội thông qua là yếu tố quan trọng, có tính lâu dài và quyết định để thực hiện hiệu quả và khả thi việc tái cơ cấu hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu, qua đó góp phần phát triển kinh tế trong giai đoạn mới và khắc phục những khó khăn, vướng trong công tác cơ cấu lại các TCTD trong giai đoạn trước, tạo nền tảng cho sự phát triển an toàn, hiệu quả của hệ thống TCTD, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
Với việc triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, công tác thanh tra, giám sát và tái cơ cấu, xử lý nợ xấu đạt được những kết quả tích cực. Sự ổn định, an toàn hệ thống được giữ vững. Nợ xấu tiếp tục được kiểm soát và duy trì ở mức dưới 3%.
Bảy là, công tác cải cách hành chính (CCHC) và cải thiện môi trường kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng đạt được những kết quả quan trọng. Trong công tác chỉ đạo điều hành CCHC, NHNN đã chỉ đạo quyết liệt các đơn vị chấp hành tốt kỷ cương hành chính, cải cách thủ tục hành chính nội bộ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý và tác nghiệp. NHNN đã sớm phê duyệt và tổ chức triển khai Đề án điều tra sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp với hoạt động giải quyết thủ tục hành chính của NHNN; Ban hành Danh mục tổng thể chế độ báo cáo và tổ chức rà soát theo đúng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Qua đó đóng góp quan trọng vào việc cải thiện chỉ số tiếp cận tín dụng nói riêng và môi trường kinh doanh nói chung, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân trong tiếp cận vốn ngân hàng. Nhờ đó, chỉ số “Tiếp cận tín dụng” của Việt Nam năm 2018 đã được Ngân hàng Thế giới xếp hạng 29/190, tăng 3 bậc và đứng thứ 4 trong ASEAN, sau Brunei (xếp hạng 2/190), Malaysia và Campuchia (xếp hạng 20/190). Theo kết quả xếp hạng chỉ số CCHC (Par Index) công bố trong năm 2017, NHNN tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu trong số các Bộ, ngành năm 2016. Đây là năm thứ hai liên tiếp NHNN giữ vị trí thứ nhất.
Tám là, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt và công nghệ, dịch vụ ngân hàng tiếp tục được phát triển mạnh mẽ, phù hợp với xu thế thanh toán của các nước trong khu vực và trên thế giới. NHNN đã ban hành Kế hoạch của ngành triển khai Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020; Thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực công nghệ tài chính của NHNN nhằm hoàn thiện hệ sinh thái, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Fintech ở Việt Nam ra đời và phát triển. Đồng thời, NHNN đã chủ động theo dõi, giám sát và kịp thời ban hành văn bản chỉ đạo TCTD về các vấn đề an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán. Các dịch vụ, phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được phát triển mạnh và đa dạng với nhiều sản phẩm, phương tiện mới, an toàn, tiện lợi, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thanh toán của khách hàng. Ngoài ra, công tác truyền thông về hoạt động thanh toán và dịch vụ ngân hàng được đẩy mạnh, nhằm cung cấp kiến thức, thay đổi thói quen của người tiêu dùng trong sử dụng dịch vụ tài chính trên nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng dịch vụ tài chính đó đồng thời đẩy mạnh thực hiện Đề án thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam và Đề án tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính. Nhờ đó, hoạt động thanh toán tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực, hạ tầng cho thanh toán thẻ được cải thiện về chất lượng, số lượng khách hàng sử dụng thanh toán điện tử qua Internet, điện thoại di động tăng khá nhanh. Các tiện ích, an toàn trong thanh toán điện tử đã góp phần cải thiện và thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư.
Tóm lại, bám sát các nhiệm vụ được Chính phủ giao, trong năm 2017, NHNN đã chủ động chỉ đạo triển khai các giải pháp để hoàn thành các nhiệm vụ được giao, bảo đảm sự ổn định, an toàn hoạt động hệ thống. Những nỗ lực và kết quả tích cực trong hoạt động ngân hàng trong năm qua đã góp phần quan trọng vào tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (GDP năm 2017 tăng 6,81% vượt kế hoạch đề ra). Nhiều tổ chức quốc tế mới đây đã đánh giá cao sự ổn định của hệ thống ngân hàng Việt Nam, trong đó, tổ chức đánh giá tín nhiệm Moody’s Investors Service đã nâng triển vọng tín nhiệm hệ thống ngân hàng Việt Nam từ mức ổn định lên tích cực.
II. MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM TRONG NĂM 2018:
Trên cơ sở chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và các đánh giá, nhận định về tình hình kinh tế, vĩ mô, tiền tệ, năm 2018, NHNN điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm bảo đảm ổn định các cân đối vĩ mô và kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Trong đó tập trung thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:
- Điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT để ổn định thị trường tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát, phấn đấu giảm lãi suất cho vay phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô và trên cơ sở đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh tài chính..
- Tiếp tục điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt phù hợp tình hình thị trường, các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ; ổn định thị trường ngoại tệ, tiếp tục tăng dự trữ ngoại hối khi thị trường thuận lợi; tiếp tục thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước đối với thị trường vàng.
- Điều hành tín dụng theo hướng kiểm soát tăng trưởng tín dụng hợp lý để góp phần thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao chất lượng tín dụng; chủ động kiểm soát tín dụng ở một số ngành, lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Kịp thời xử lý các khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách nhằm tạo thuận lợi cho hệ thống TCTD mở rộng tín dụng phục vụ phát triển kinh tế, đi đôi với an toàn hoạt động. Tiếp tục triển khai các chương trình, chính sách tín dụng đối với một số ngành, lĩnh vực để hỗ trợ các TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả, chuyển dịch cơ cấu tín dụng, hỗ trợ an sinh xã hội.
- Đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu, trong đó có một số giải pháp như: (i) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đặc biệt là tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành chính sách, quy định, cơ chế hỗ trợ cho quá trình cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu của các TCTD, các quy định về xử lý vấn đề sở hữu chéo (trong đó, chú trọng các văn bản hướng dẫn Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD năm 2010); (ii) Tập trung triển khai có chất lượng và đúng tiến độ các nhiệm vụ được giao tại Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai thực hiện Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” và Nghị quyết số 42/2017/QH14 thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD; (iii) Tiếp tục tăng cường đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, giám sát ngân hàng phù hợp với yêu cầu thực tiễn của Việt Nam và các thông lệ, chuẩn mực quốc tế;...
- Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán trong nền kinh tế; triển khai có hiệu quả Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2016-2020; Phát triển công nghệ ngân hàng và dịch vụ thanh toán, nâng cao hiệu quả và tính an toàn trong hệ thống thanh toán của ngân hàng Việt Nam. Từng bước xây dựng, triển khai, ứng dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật cơ bản cho hạ tầng công nghệ thông tin và các hệ thống thông tin nghiệp vụ của ngành Ngân hàng theo thông lệ quốc tế.
- Thúc đẩy truyền thông về thanh toán để triển khai Đề án thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và Đề án tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính.
- Triển khai tích cực có hiệu quả 6 lĩnh vực cải cách hành chính (CCHC) theo Nghị quyết 30c/NQ-CP của Chính phủ về chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020, trong đó tập trung vào cải cách thể chế, thủ tục hành chính, xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Tập trung triển khai xây dựng Chính phủ điện tử theo Nghị quyết 36/NQ-CP.
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VN