Gần đây, hầu hết các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế đều điều chỉnh nâng dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu, nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động đầu tư phục hồi nhẹ tại các nước phát triển và khó khăn giảm dần tại các nước xuất khẩu thuộc nhóm các nước đang phát triển và mới nổi (EMDEs). Tuy nhiên, đà phục này có thể bị cản trở bởi xu hướng bất định chính sách và chủ nghĩa bảo hộ, nguy cơ rối loạn trên thị trường tài chính, rủi ro địa chính trị triền miên. Trong dài hạn, năng suất tăng chậm dầu và hoạt động đầu tư yếu ớt sẽ xói mòn tiềm năng tăng trưởng kinh tế tại các nước phát triển cũng như EMDEs.
Theo nhận định tại báo cáo cập nhật của Ngân hàng thế giới (WB), nhờ các chương trình mở rộng tài khóa tại các nước phát triển, nhất là tại Mỹ, kinh tế toàn cầu có thể tăng cao hơn kỳ vọng, nhưng rủi ro tăng trưởng kinh tế thấp vẫn áp đảo. Trong năm 2017, thị trường tài chính chỉ chao đảo nhẹ, nhưng có thể bùng phát trở lại, do bất định chính sách vẫn ở mức cao, nhất là những thay đổi bất thường về chính sách tiền tệ, thương mại và những chính sách khác tại các nền kinh tế chủ chốt, khu vực tài chính tỏ ra kém bền vững, lo lắng xung quanh kết quả bầu cử tại các nước châu Âu, rủi ro địa chính trị gia tăng. Nếu hoạt động đầu tư trầm lắng tiếp tục kéo dài, tiềm năng tăng trưởng kinh tế sẽ bị xói mòn, đe dọa các nước phát triển và EMDEs.
Trong quá trình nghiên cứu, các chuyên gia WB đã xác định hai nhóm yếu tố tích cực và tiêu cực tác động đến triển vọng kinh tế toàn cầu.
Liên quan đến kịch bản kinh tế lạc quan, chính sách tài khóa tại mở rộng các nước phát triển hàng đầu sẽ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, nhất là các biện pháp kích thích tài khóa tại Mỹ. Kinh tế Mỹ tăng cao sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu, nhưng có thể bị nhấn chìm bởi các biện pháp bảo hộ thương mại tại Mỹ. Tại khu vực euro, các biện pháp kích thích tài khóa có thể sẽ hỗ trợ tăng trưởng do tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao và mặt bằng lãi suất vẫn ở mức thấp, hoạt động thương mại sẽ sôi động trở lại, gây tác động tích cực đến toàn thế giới, đặc biệt là các EMDE. Tại Nhật Bản, các biện pháp kích thích bổ sung trong ngắn hạn và việc trì hoãn lộ trình tăng thuế thu nhập trong giai đoạn trung hạn sẽ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong những năm tới.
Trong kịch bản kinh tế bi quan, các rủi ro kìm hãm tăng trưởng kinh tế bao gồm: xu hướng bảo hộ và trả đũa thương mại, bất định chính sách và rủi ro địa chính trị, thị trường tài chính căng thẳng, giá dầu tiếp tục giảm, tăng trưởng tiềm năng chậm dần.
Bất chấp những cải thiện gần đây về hoạt động thương mại thế giới, xu hướng gia tăng bảo hộ thương mại đang trở thành yếu tố đáng lo ngại. Trong giai đoạn trung hạn, những đòi hỏi về điều chỉnh hệ thống pháp luật đa phương có thể cản trở các nỗ lực hội nhập kinh tế, và cuối cùng sẽ kìm hãm tăng trưởng kinh tế và việc làm cho người lao động. Việc mở rộng các rào cản thương mại một cách đơn phương và thiếu phối hợp giữa các doanh nghiệp có thể sẽ vấp phải những biện pháp trả đũa, thậm chí làm gia tăng các mức thuế quan trên toàn cầu, gây thiệt hại rất lớn cho những quốc gia liên quan.
Đến lượt nó, sự gia tăng các biện pháp bảo hộ và hạn chế hội nhập thương mại sẽ kìm hãm tăng trưởng. Trong bối cảnh liên kết các chuỗi giá trị phức tạp, những chi phí và rào cản khác đối với thương mại sẽ tích tụ dần, nguyên nhân là do hàng hóa trung gian được sản xuất qua nhiều công đoạn tại những quốc gia khác nhau. Bất kỳ rào cản nào đều làm tăng chi phí thương mại cùng với chuỗi cung ứng, và người tiêu dùng cuối cùng phải gánh chịu chi phí này, ảnh hưởng đến phúc lợi xã hội. Chưa hết, những rạn nứt về các mối quan hệ thương mại giữa các nền kinh tế chủ chốt cũng có thể dẫn đến những căng thẳng về địa chính trị và xung đột vũ trang.
Báo cáo cho thấy, xu hướng bất định chính sách gia tăng từ giữa năm 2016, nó đang gây mất niềm tin và đe dọa tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu. Bất định chính sách có thể trì hoãn các quyết định đầu tư và thuê mướn lao động, cản trở các dòng tín dụng, và trầm trọng thêm tình hình kinh tế vốn đang tăng thấp và mong manh như hiện nay.
Trong bối cảnh hiện nay, nguy cơ bất định chính sách có thể tiếp tục mở rộng. Tại Mỹ, Chính phủ mới đang tiến hành những thay đổi lớn về chính sách tài khóa, thương mại và lao động nhập cư. Những thay đổi này sẽ tác động đến quyết định của các doanh nghiệp về đầu tư và thuê mướn lao động, cũng như nguồn vốn và dòng kiều hối đổ vào các EMDE. Tác động này có thể rơi vào thế bất lợi hơn, trước những bất ổn về chính sách. Tại châu Âu, ảnh hưởng ngày càng tăng của các đảng dân túy có thể tác động đến chính sách và liên kết kinh tế tại Liên minh châu Âu (EU). Ngoài ra, quá trình đàm phán liên quan đến sự kiện Vương quốc Anh rời EU cũng kèm theo một số rủi ro nhất định.
Tại nhiều khu vực, hoạt động kinh tế cũng bị cản trở bởi tình hình an ninh xấu đi, rủi ro địa chính trị kéo dài và tiếp tục tăng. Tại Trung Đông, xung đột lợi ích có nguy cơ tiếp tục tăng, nhất là tại I rắc, Syria, Yemen, cũng như những chia rẽ tôn giáo trong khu vực. Những rủi ro này có thể gây gián đoạn nguồn cung dầu mỏ, làm tăng thêm những thách thức cho nhiều nước trên thế giới. Tại Trung Đông và khu vực Cận Sahara, tình trạng khan hiếm nguồn nước và an ninh lương thực cũng có nguy cơ dẫn đến bất ổn. Trong đó, hạn hán và xung đột vũ trang đang là những rủi ro lớn tại nhiều nước châu Phi và Trung Đông. Ngoài ra, phải kể đến nguy cơ bắt nguồn từ chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên.
Liên quan đến rủi ro tài chính, một sự lộn xộn trong việc thắt chặt tài chính hoặc thị trường tài chính chao đảo mạnh có thể xảy ra do tác động của nhiều yếu tố: (i) Việc đánh giá lại rủi ro liên quan đến chính sách, động thái này có thể dẫn đến sự điều chỉnh bất ngờ về giá tài sản và làn sóng chuyển vốn sang tài sản an toàn, gây tác động đối ngược lên những tài sản có khả năng sinh lời cao, tác động tiêu cực đến EMDEs. Về tổng quát, bất định chính sách thường gắn liền với lợi suất rủi ro cao, khi các nhà đầu tư tìm cách bảo toàn tài sản; (ii) Chi phí vay vốn tăng đột ngột, điều này có thể xảy ra trước những thay đổi về kỳ vọng chính sách tiền tệ do chính sách tiền tệ tại Mỹ đang trở lại trạng thái bình thường, dấu hiệu hoặc khả năng khu vực euro và Nhật Bản rút khỏi chính sách tiền tệ nới lỏng sớm hơn kỳ vọng có thể đẩy chi phí vay vốn tăng cao, châm ngòi cho những bất ổn tài chính tại EMDEs và kìm hãm các dòng vốn vào; (iii) USD sẽ tăng giá mạnh, nếu Cục Dự trữ liên bang Mỹ tăng lãi suất sớm hơn lộ trình đề ra. Trong đó, các biện pháp kích thích tài khóa tại Mỹ cũng hỗ trợ xu hướng này. Một yếu tố quan trọng khác cần lưu ý là những thay đổi bất thường về chính sách thương mại hay tài khóa tại Mỹ cũng có thể hỗ trợ USD tăng giá, khi các nhà đầu tư tìm cách chuyển dòng vốn sang tài sản an toàn hơn, mà USD là lựa chọn ưu tiên hàng đầu. Trong những năm gần đây, tỷ lệ nợ ngoại tệ có xu hướng tăng dần, nhất là tại các doanh nghiệp thuộc nhóm EMDEs. Vì thế, nếu USD tăng giá đột ngột, rủi ro ngoại hối sẽ tăng cao. Đối với những doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng hóa thực, áp lực này có thể tăng cao do tương quan tỷ lệ nghịch giữa USD và giá cả hàng hóa
Liên quan đến thị trường dầu thế giới, giá dầu có nguy cơ tiếp tục giảm sâu, do sản lượng dầu đá phiến tại Mỹ có khả năng sẽ tăng mạnh, tác động phai nhạt dần của cam kết của các nước trong và ngoài Tổ chức các nước Xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) về kiềm chế sản lượng dầu, trong khi nhu cầu về dầu mỏ trên thế giới tăng chậm cùng với xu hướng chuyển dần sang những nguồn năng lượng thân thiện với môi trường.
Báo cáo cho biết, trong những năm gần đây, GDP tại các nước phát triển và EMDEs đều ghi nhận mức suy giảm rõ rệt, phản ánh tác động phối hợp của tăng trưởng đầu tư và năng suất lao động, mặc dù có sự khác biệt giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong ngắn hạn, các dự báo đều nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế trên toàn thế giới, phản ánh chu kỳ phục hồi về đầu tư và năng suất lao động. Tuy nhiên, rủi ro kìm hãm tăng trưởng kinh tế trong dài hạn vẫn chiếm ưu thế. Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2009, xu hướng suy giảm các yếu tố năng suất tổng thể ngày càng thể hiện rõ nét, nhất là tại EMDEs sau năm 2010. Xu hướng năng suất tăng chậm có thể bắt nguồn từ những hạn chế liên quan đến hoạt động đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp và quốc gia hàng đầu về công nghệ, và tốc độ chậm chạp trong việc phổ biến thành quả công nghệ sang những doanh nghiệp và quốc gia khác.
Các chuyên gia WB cho rằng, triển vọng kinh tế trầm lắng có thể dẫn đến sự suy giảm đầu tư hiện hành, làm giảm nhu cầu trong ngắn hạn và tác động tiêu cực đến khả năng tích lũy tư bản trong dài hạn.
Hiện nay, các nước phát triển đang rút dần chính sách tiền tệ mở rộng và chính sách tài khóa hạn chế, nhưng ngân hàng trung ương tại các nước phát triển sẽ đối mặt với thách thức trong việc đưa chính sách tiền tệ trở lại trạng thái bình thường do động thái này có thể sẽ cản trở đà phục hồi kinh tế và làm nảy sinh những rối loạn trên thị trường tài chính. Tại nhiều nước phát triển, chính sách tài khóa mở rộng được coi là thích hợp, là biện pháp bổ sung để củng cố nền tài khóa bền vững trong giai đoạn trung hạn. Quá trình toàn cầu hóa và tiến bộ công nghệ đang làm thay đổi nhu cầu về việc làm và kỹ năng, đòi hỏi phải hỗ trợ người lao động trong việc điều chỉnh để thích ứng với điều kiện mới và tránh tác động tiêu cực của xu thế này. Tại Trung Quốc, các biện pháp chặn đà suy giảm GDP và hạn chế thiệt hại bắt nguồn từ những rối loạn trên thị trường tài chính cần được cân nhắc thận trọng nhằm đảm bảo cân bằng các mục tiêu chính sách.
Trong nhóm EMDEs, lạm phát tại các nước xuất khẩu và có xu hướng tương đồng, nên việc nới lỏng lạm phát sẽ cho phép các nhà tạo lập chính sách tại một số nước xuất khẩu hàng hóa chấp nhận quan điểm chính sách mở rộng. Mặc dù tác động của xu hướng giá cả hàng hóa giảm thấp đến nguồn thu ngân sách tại các nước xuất khẩu hàng hóa bắt đầu phai nhạt dần, dư địa chính sách tài khóa tại hầu hết EMDEs nhìn chung rất hạn chế. Vì thế, cần khẩn trương thực hiện các chính sách cải thiện môi trường kinh doanh và hỗ trợ đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Ngoài ra, cần triển khai các chính sách thúc đẩy hội nhập thương mại và khắc phục những trở ngại về cơ cấu đối với thương mại, góp phần hạn chế những tác động tiêu cực bắt nguồn từ chủ nghĩa bảo hộ và xu hướng bất định chính sách.
Xuân Thanh
Nguồn: WB tháng 6/2017