Nhằm thúc đẩy kết nối thanh toán xuyên biên giới trong khu vực và trên thế giới, đáp ứng nhu cầu thanh toán nhanh chóng, an toàn và tiện ích của người dân, doanh nghiệp, cần khung pháp lý hoàn chỉnh, sự đồng bộ hạ tầng kỹ thuật hiện đại, phát triển các nền tảng công nghệ thanh toán bền vững, an toàn và hiệu quả hơn, tăng cường sự phối hợp liên ngành và hợp tác quốc tế sâu rộng.
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Kết nối thanh toán xuyên biên giới là xu thế tất yếu, là nhu cầu thực tiễn khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế và định hướng phát triển kinh tế số, xã hội số của Chính phủ. Để thúc đẩy kết nối, cần sự đồng bộ của hạ tầng kỹ thuật hiện đại, khung pháp lý hoàn chỉnh, an toàn, bảo mật, sự phối hợp liên ngành và hợp tác quốc tế sâu rộng.
Thanh toán xuyên biên giới là các giao dịch tài chính mà người trả tiền (payer) và người nhận tiền (recipient) ở các khu vực pháp lý (quốc gia) khác nhau, với sự tham gia của các đồng tiền khác nhau và các quy trình chuyên biệt (như quy trình quyết toán các giao dịch ngoại hối).
Đáp ứng nhu cầu thanh toán của người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Phát biểu tại Hội thảo “Thanh toán xuyên biên giới và vay vốn trực tuyến: Tiện ích số cho kinh doanh và tiêu dùng” do báo Lao động tổ chức ngày 11/9/2025, ông Phạm Anh Tuấn - Vụ trưởng Vụ Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cho biết, kết nối thanh toán xuyên biên giới là xu thế tất yếu, là nhu cầu thực tiễn khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế và định hướng phát triển kinh tế số, xã hội số của Chính phủ. Để thúc đẩy kết nối, cần sự đồng bộ của hạ tầng kỹ thuật hiện đại, khung pháp lý hoàn chỉnh, an toàn, bảo mật, sự phối hợp liên ngành và hợp tác quốc tế sâu rộng.
Có 02 hình thức: Thứ nhất, kết nối song phương là kết nối hệ thống thanh toán của 02 quốc gia; Thứ hai, kết nối đa phương bao gồm các hệ thống thanh toán quốc tế; các dự án kết nối thanh toán giữa các quốc gia như Nexus (ASEAN-5), Dự án P27 (Bắc Âu), mBridge…Trên thế giới hiện nay chủ yếu ưu tiên kết nối song phương, tập trung vào lĩnh vực bán lẻ, đồng thời chú trọng thống nhất chuẩn kỹ thuật, hoàn thiện pháp lý và đảm bảo an toàn hệ thống.
Về hành lang pháp lý cho phát triển thanh toán xuyên biên giới được quy định tại Luật Các Tổ chức tín dụng (TCTD) (Điều 11. Tổ chức và tham gia hệ thống thanh toán của ngân hàng thương mại); tại Pháp lệnh ngoại hối (Điều 6. Tự do hóa đối với giao dịch vãng lai và Điều 7. Thanh toán và chuyển tiền liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ), tại các văn bản hướng dẫn Pháp lệnh ngoại hối. Ngoài ra, ngày 15/5/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2024/NĐ-CP quy định về thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM). Nghị định số 52/2024/NĐ-CP, tạo lập hành lang pháp lý cho các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tham gia các hệ thống thanh toán quốc tế (theo Điều 5. Thanh toán bằng ngoại tệ và thanh toán quốc tế).
Tại Hội thảo nói trên, bà Nguyễn Thị Thu - Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán, NHNN cho biết về triển khai kết nối thanh toán qua mã phản hồi nhanh (QR): Trong thời gian qua, NHNN đã hợp tác, phối hợp với Ngân hàng Trung ương (NHTW), cơ quan quản lý một số quốc gia trong khu vực: Thái Lan, Campuchia, Lào, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore… triển khai kết nối thanh toán bán lẻ song phương qua mã QR. Hiện tại, NHNN đã hợp tác triển khai chính thức 03 kết nối thanh toán bán lẻ song phương qua mã QR với Thái Lan, Campuchia, Lào. NHNN đang nghiên cứu triển khai kết nối thanh toán qua mã QR với Trung Quốc, Singapore và Hàn Quốc. Dự kiến trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục triển khai với Ấn Độ, Đài Loan, Malaysia. Về kết nối thanh toán thẻ nội địa song phương: Cho đến nay, Việt Nam đã hoàn thành kết nối thanh toán thẻ nội địa với một số quốc gia thông qua kết nối giữa các tổ chức chuyển mạch thẻ Việt Nam (NAPAS) với các tổ chức chuyển mạch thẻ các nước là thành viên của mạng lưới thanh toán Châu Á (APN), bao gồm KFTC (Hàn Quốc), PayNet (Malaysia), ITMX (Thái Lan) và UnionPay (Trung Quốc).
Về việc các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (TCCUDVTT) tham gia các mạng lưới, hệ thống thanh toán quốc tế, hầu hết các ngân hàng Việt Nam đang là thành viên của Hiệp hội Viễn thông Tài chính Liên ngân hàng Toàn cầu (SWIFT). Hiện có 87 ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là thành viên SWIFT. Ngoài ra, để xử lý các giao dịch thanh toán xuyên biên giới, các ngân hàng tham gia một số hệ thống thanh toán quốc tế khác như: (i) Hệ thống các tổ chức thẻ quốc tế (Visa, Master, JCB, UnionPay, AMEX, Discovery Card); (ii) Tham gia làm đại lý cho các mạng lưới chuyển tiền xuyên biên giới (MTO) như MoneyGram, Western Union, Wise.
Hợp tác quốc tế - xây dựng cơ chế phối hợp đảm bảo an toàn trong thanh toán xuyên biên giới
Mặc dù đưa lại nhiều tiện ích cho người dân, doanh nghiệp tại mỗi quốc gia, phù hợp xu thế phát triển công nghệ tài chính, hội nhập quốc tế, hợp tác giao thương và chuyển đổi số trên qui mô toàn cầu nhưng việc triển khai thanh toán xuyên biên giới cũng gặp nhiều thách thức.
Trước hết, về chính sách, pháp lý, mỗi quốc gia có quy định pháp luật khác nhau về tiền tệ, thanh toán, chống rửa tiền, bảo vệ dữ liệu. Bên cạnh đó là chênh lệch múi giờ, khi thời gian hoạt động của các hệ thống ngân hàng và thời gian xử lý thanh toán khác nhau giữa các quốc gia có thể dẫn đến sự chậm trễ trong giao dịch. Về đồng tiền quyết toán, việc tỷ giá hối đoái biến động có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận và chi phí của các giao dịch, cũng như sự phức tạp trong quản lý rủi ro tỷ giá.
Hơn nữa, các hệ thống thanh toán dựa trên công nghệ mới cần có sự đầu tư, kiểm tra kỹ lưỡng về công nghệ an ninh và bảo mật. Sự khác biệt về tiêu chuẩn kỹ thuật cũng là trở ngại, bởi sự thiếu nhất quán về tiêu chuẩn mã QR và giao thức kết nối giữa các quốc gia. Các giao dịch xuyên biên giới thường liên quan đến nhiều hệ thống ngân hàng, tổ chức tài chính và đối tác khác nhau, đòi hỏi sự phối hợp phức tạp và tốn kém về nguồn lực.
Ngoài ra, tội phạm sử dụng công nghệ cao ngày càng tinh vi, phức tạp trên qui mô toàn cầu. Chưa kể, việc thiết lập và duy trì các kết nối liên thông giữa các hệ thống thanh toán khác nhau có thể tốn kém, đặc biệt với các hệ thống chưa hoàn chỉnh.
Tại Hội thảo, ông Phạm Anh Tuấn chia sẻ, thời gian tới, với vai trò cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, NHNN sẽ tiếp tục triển khai các chính sách và giải pháp đồng bộ nhằm thúc đẩy kết nối thanh toán xuyên biên giới trong khu vực và trên thế giới, đáp ứng nhu cầu thanh toán nhanh chóng, an toàn và tiện ích của người dân, doanh nghiệp.
Theo đó, NHNN tiếp tục hướng dẫn, tổ chức triển khai quy định tại Nghị định số 52/2024/NĐ-CP, trong đó có tham gia hệ thống thanh toán quốc tế; tiếp tục triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tại Quyết định số 234/QĐ-NHNN ngày 19/02/2024 của Thống đốc NHNN ban hành Chiến lược phát triển các hệ thống thanh toán Việt Nam đến năm 2030.
NHNN tiếp tục định hướng và chỉ đạo các TCCUDVTT mở rộng triển khai kết nối thanh toán song phương bán lẻ: Triển khai kết nối thanh toán song phương với Ấn Độ, Đài Loan, Malaysia, Indonesia... nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán/chuyển tiền xuyên biên giới của người dân, doanh nghiệp (như du lịch, chữa bệnh, học tập, mua sắm,...); nâng cấp hệ thống Chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm thúc đẩy thanh toán xuyên biên giới.
Đặc biệt, khi mở rộng kết nối thanh toán quốc tế, bài toán an toàn mạng và bảo vệ dữ liệu càng trở nên phức tạp do yêu cầu liên thông giữa nhiều hệ thống với tiêu chuẩn bảo mật khác biệt. NHNN cùng các tổ chức tài chính tại Việt Nam cần tăng cường hợp tác quốc tế, chủ động chia sẻ thông tin tình báo mạng và xây dựng cơ chế phối hợp ứng phó khẩn cấp xuyên biên giới.
NHNN và các TCCUDVTT tiếp tục thúc đẩy hơn nữa công tác truyền thông, tăng cường mức độ nhận diện các đơn vị chấp nhận thanh toán mã QR song phương.
Về phía các TCCUDVTT đầu tư hạ tầng, ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cấp, cải thiện hệ thống thanh toán tại Việt Nam, tăng cường kết nối với các hệ thống thanh toán xuyên biên giới. Đồng thời, mở rộng, phát triển mạng lưới chấp nhận thanh toán.
Các TCTD cần tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng bảo mật, thường xuyên cập nhật giải pháp công nghệ mới, đồng thời xây dựng hệ thống giám sát an ninh mạng ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Tại mỗi TCTD, việc xây dựng văn hóa an toàn dữ liệu, trong đó mọi cán bộ, nhân viên đều nhận thức và có trách nhiệm bảo vệ quyền riêng tư của khách hàng, đóng vai trò then chốt; đào tạo, nâng cao nhận thức về an ninh mạng và bảo vệ dữ liệu cần được triển khai định kỳ trên toàn hệ thống.
Ngoài ra, để vượt qua những thách thức trong triển khai thanh toán xuyên biên giới nói trên cần có sự hợp tác quốc tế để xây dựng các tiêu chuẩn chung, hài hòa hóa quy định pháp lý, và phát triển các nền tảng công nghệ thanh toán bền vững, an toàn và hiệu quả hơn. Các quốc gia cần tiếp tục phối hợp tiến tới xây dựng khung pháp lý chặt chẽ về bảo vệ dữ liệu cá nhân (như GDPR), tuân thủ chuẩn mực quốc tế; tăng cường hợp tác quốc tế trong chia sẻ thông tin tình báo mạng; thiết lập cơ chế ứng cứu khẩn cấp xuyên biên giới khi xảy ra sự cố.
Hà Thu