Trả lời thẳng vào các vấn đề mà đại biểu quan tâm, giải trình đầy đủ các vấn đề còn bất cập, hạn chế và đưa ra những giải pháp cụ thể... Đó là những nét nổi bật trong phần trả lời chất vấn của Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng trong các ngày 8-9/6.
Phối hợp đồng bộ các giải pháp để phục hồi kinh tế
Đỗ Lê
Trả lời thẳng vào các vấn đề mà đại biểu quan tâm, giải trình đầy đủ các vấn đề còn bất cập, hạn chế và đưa ra những giải pháp cụ thể... Đó là những nét nổi bật trong phần trả lời chất vấn của Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng trong các ngày 8-9/6.
Ổn định vĩ mô là trọng tâm trong điều hành
Trước thực tế lạm phát đang gia tăng nhanh trên toàn cầu, kéo theo đó là mặt bằng lãi suất cũng tăng lên nhanh chóng, trong khi trong nước NHNN được yêu cầu phải giữ ổn định lạm phát và mặt bằng lãi suất. Nhiều đại biểu đã chất vấn Thống đốc liên quan đến nhóm vấn đề này. Như đại biểu Huỳnh Thị Phúc (Bà Rịa - Vũng Tàu) đặt câu hỏi: Thống đốc nhận định thế nào về áp lực lạm phát trong thời gian tới. Hay đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) muốn biết NHNN sẽ xử lý thế nào trước tình huống lạm phát; hay như mặt bằng lãi suất thế giới tăng cao hiện nay trong khi trong nước được yêu cầu phải giữ ổn định, phấn đấu giảm thêm…
Trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) nói chung, lãi suất nói riêng đang chịu những áp lực khá lớn cả từ bên ngoài và bên trong. Bên ngoài, lạm phát đang tăng nhanh và nhiều NHTW đều có xu hướng tăng lãi suất để đối phó. Trong nước, lãi suất phụ thuộc vào cung - cầu vốn. Chỉ trong 5 tháng từ đầu năm đến nay khi hoạt động sản xuất kinh doanh phục hồi trở lại thì tăng trưởng tín dụng đã lên đến 8% - mức khá cao so với mục tiêu định hướng của năm 2022 là 14%. Tuy nhiên, NHNN đã điều tiết và đã cơ bản ổn định được mặt bằng lãi suất và lãi suất chỉ tăng 0,09% so với đầu năm ngoái.
Cùng với đó, 5 tháng đầu năm lạm phát tăng 2,25% - vẫn đang ở mức kiểm soát được và nguyên nhân chủ yếu do tác động của các yếu tố chi phí đẩy do khi giá các nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu tăng.
Nhưng theo Thống đốc, áp lực lạm phát thời gian tới lớn hơn, trong đó ngoài những yếu tố bên ngoài, thì việc đẩy mạnh triển khai các gói trong Chương trình phục hồi cũng có thể có những tác động.
Bởi vậy từ nay đến cuối năm, NHNN sẽ theo dõi sát diễn biến KTVM cũng như tiến độ giải ngân của các gói trong Chương trình để đưa ra những biện pháp điều hành phù hợp với thực tiễn, đồng thời chủ động và phối hợp với Bộ Tài chính trong điều hành tài khóa cũng như là các chính sách khác để giữ ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
“Chúng tôi cho rằng, chắc chắn phải cân đối hài hòa giữa các giải pháp. Kể cả các giải pháp về điều hành tín dụng, lãi suất, tỷ giá và các công cụ khác thì cũng cần phải điều hành, phải phối hợp đồng bộ và phải phù hợp với những diễn biến sao cho có lợi nhất đối với ổn định KTVM và hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho DN và người dân, nhưng không chủ quan đối với lạm phát”, Thống đốc nhấn mạnh.
Nỗ lực triển khai hiệu quả Chương trình phục hồi
Phối hợp điều hành CSTT và CSTK để ổn định KTVM cũng là một trong các nhóm nhiệm vụ trọng tâm mà NHNN thực hiện theo Nghị quyết 43 của Quốc hội và Nghị quyết 11 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với đó, một nội dung liên quan khác là nghị định về tín dụng ưu đãi đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được NHNN hoàn thành và Chính phủ mới đây đã ban hành (Nghị định số 28/2022/NĐ-CP). Hiện Ngân hàng Chính sách xã hội đã sẵn sàng quy trình, thủ tục cho vay, chỉ còn chờ các thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành liên quan.
Liên quan đến câu hỏi của đại biểu Quốc hội về gói hỗ trợ lãi suất 2%, Thống đốc cho biết, ngay khi Chính phủ ban hành Nghị định 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất 2% từ ngân sách nhà nước, NHNN đã ban hành Thông tư 03/2022/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện. Nghị định 31 đã quy định rất rõ, đối với những khoản đã ký thỏa thuận vay với khách hàng và giải ngân từ ngày 1/1/2022, nếu thuộc các đối tượng của Nghị định 31 thì vẫn được hỗ trợ lãi suất và lãi suất đó sẽ đến hạn trong thời gian hiệu lực của Nghị định 31 cho đến ngày 31/12/2023. Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định rõ các nhóm đối tượng được vay (các DN, tổ chức thuộc một số ngành, lĩnh vực theo Nghị định 27 của Chính phủ; các đối tượng có nhu cầu vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo chung cư cũ...) và Thông tư 03 yêu cầu các TCTD cho vay đúng đối tượng. Tuy nhiên, dù các đối tượng, DN thuộc các ngành được hỗ trợ, nhưng vẫn phải đảm bảo khả năng trả nợ và có khả năng phục hồi mới được cho vay.
Hỗ trợ nhưng không
hạ chuẩn
Thời gian qua, những khó khăn do đại dịch Covid-19 gây ra khiến nợ xấu bắt đầu xu hướng tăng. Vì vậy, cũng dễ hiểu khi đây cũng là lĩnh vực được nhiều đại biểu quan tâm đặt câu hỏi.
Liên quan đến nhóm vấn đề này, Thống đốc thông tin, theo tinh thần của Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm XLNX của các TCTD và với sự quan tâm của Quốc hội, nợ xấu sẽ được đưa về dưới mức 3% vào năm 2020. Nhưng trong 2020 và 2021, nền kinh tế chịu tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 nên nợ xấu gia tăng. Trước khó khăn của DN và người dân, nếu để nợ xấu gia tăng thì bản thân DN và người dân sẽ khó có thể tiếp cận được các khoản vay mới. Chính vì vậy ngay trong tháng 3/2020, NHNN đã ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN (hiện nay là Thông tư 14) cho phép các TCTD thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi suất, phí và giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Đồng thời, NHNN đã có sự chủ động trong quy định ở Thông tư này, đó là yêu cầu các TCTD phải đưa một lộ trình để trích lập dự phòng rủi ro đối với những khoản nợ được cơ cấu giữ nguyên nhóm nợ, để khi nợ xấu phát sinh thì cũng có nguồn lực tài chính để xử lý.
“Trong chỉ đạo điều hành hiện nay, NHNN cũng thường xuyên chỉ đạo các TCTD trong điều kiện như vậy nhưng cho vay phải đảm bảo chặt chẽ và không hạ chuẩn. Bởi vì, trên thực tế chúng ta đã chứng kiến những cuộc khủng hoảng do cho vay hạ chuẩn. Khi cho vay phải kiểm soát chặt chẽ sẽ giúp hạn chế nợ xấu mới phát sinh”, Thống đốc nói.
Kéo dài Nghị quyết 42 là cần thiết
Cũng liên quan đến vấn đề nợ xấu, một vấn đề đặt ra hiện nay và dự kiến sẽ được thông qua tại Nghị quyết Kỳ họp thứ 3 này là việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42. Một số đại biểu băn khoăn, nếu Nghị quyết 42 được thông qua thì liệu có XLNX được dứt điểm hay không? Có giải quyết được triệt để các vấn đề vướng mắc, hạn chế của Nghị quyết không?
Liên quan đến vấn đề này, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, một điểm quan trọng trong Nghị quyết 42 là cho phép người cho vay thu giữ tài sản đảm bảo (TSĐB) cũng như được bán những khoản nợ xấu và TSĐB có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị TSĐB. Đây là một điểm vô cùng quan trọng. “Khi tổng kết số liệu triển khai Nghị quyết 42, trong số 541.000 tỷ đồng trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực thì có tới 380.000 tỷ đồng xử lý được, trong đó khoảng 40% là các khoản mà khách hàng tự trả nợ. Do đó, mặc dù còn những khó khăn, vướng mắc nhưng việc kéo dài Nghị quyết 42 sẽ tạo điều kiện để tiếp tục XLNX”, Thống đốc tin tưởng.
Cho rằng việc kéo dài thời gian áp dụng Nghị quyết 42 đến 31/12/2023 là hết sức cần thiết nhưng các đại biểu cho rằng, vấn đề này cần phải gắn chặt với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan để các cơ chế, chính sách được triển khai một cách liên tục, đồng bộ. Vì vậy, các đại biểu muốn biết về tiến độ luật hóa thế nào để kịp thời có đủ hành lang pháp lý XLNX khi sau thời gian gia hạn Nghị quyết 42 chấm dứt.
Theo Thống đốc, ngay từ khi tổng kết, đánh giá Nghị quyết 42 NHNN cũng đã tham khảo kinh nghiệm các nước và tiến hành đánh giá những quy định của pháp luật hiện tại về tiền tệ, ngân hàng. “Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ phối hợp với các bộ, ngành để đánh giá những quy định của pháp luật có liên quan và cũng sẽ tham mưu, đề xuất xem cách thức luật hóa như thế nào, ban hành thành luật riêng hay là quy định tại các luật, hay là quy định tại Luật Các TCTD Thống đốc cho biết. Về lộ trình, dự kiến vào kỳ họp đầu tiên năm 2023, Quốc hội khóa XV, NHNN sẽ trình dự thảo luật này”, Thống đốc cho biết.