Ngày 9/11, Viện chiến lược Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội thảo Khoa học giới thiệu, trao đổi kết quả nghiên cứu đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ “Quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng số - Thực tiễn, kinh nghiệm quốc tế và giải pháp đối với Việt Nam”. Tham dự Hội thảo có đại diện một số đơn vị thuộc NHNN; đại diện một số NHTM; đơn vị nghiên cứu; một số công ty Fintech…
Quang cảnh Hội thảo
Phát biểu khai mạc Hội thảo Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, NHNN, Nguyễn Thị Hiền cho biết, sự phát triển của công nghệ tài chính (Fintech) và sự thay đổi trong thị hiếu tiêu dùng đối với dịch vụ tài chính đã thúc đẩy hệ thống ngân hàng toàn cầu phải thay đối mô hình kinh doanh. Sự phát triển mạnh mẽ của các sáng kiến công nghệ đã và đang hình thành nên xu hướng mới cho ngân hàng bán lẻ trở thành ngân hàng số.
Bà Hiền cho biết thêm, ngân hàng số (Digital Banking) là một hình thức ngân hàng số hóa tất cả những hoạt động và dịch vụ ngân hàng truyền thống. Theo đó mọi giao dịch ngân hàng đều được thực hiện qua Internet, diễn ra mọi lúc mọi nơi. Digital Banking đòi hỏi cao về công nghệ bao gồm sự đổi mới trong dịch vụ tài chính, chiến lược di động, kỹ thuật số, AI, thanh toán, RegTech, dữ liệu, blockchain, API, kênh phân phối và công nghệ…
Bà Hiến nhấn mạnh, hiện NHNN đang trong quá trình triển khai kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025 trong đó có nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy định pháp lý thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, phát triển ngân hàng số. Nhìn chung với xu hướng, nhu cầu tất yếu cũng như chủ trương, định hướng thúc đẩy đổi mới sáng tạo của Chính phủ là những điều kiện hết sức thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số của ngân hàng Việt Nam.
Đại diện nhóm đề tài Vụ Thanh toán, NHNN trình bày tóm tắt các nội dung nghiên cứu của Đề tài
Đề tài “Quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng số - Thực tiễn, kinh nghiệm quốc tế và giải pháp đối với Việt Nam” do Ths. Lê Anh Dũng, Phó Vụ trưởng, Vụ Thanh toán, NHNN làm chủ nhiệm. Trình bày tính cấp thiết đề tài nghiên cứu, đại diện nhóm đề tài cho biết, ngân hàng số được hiểu trên hai khía cạnh,gồm “hoạt động ngân hàng số” và “thực thể ngân hàng số”. Theo đó, hoạt động ngân hàng số (Digital banking) là cấp độ phát triển mới trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng truyền thống. Là ứng dụng công nghệ số, dữ liệu trong mọi mặt hoạt động, nghiệp vụ ngân hàng, từ front – end cho đến back – end, cho phép quản trị điều hành ngân hàng, cung ứng dịch vụ tới khách hàng trên nền tảng số gắn với những mô hình kinh doanh mới đổi mới sáng tạo. Còn thực thể ngân hàng số (Digital bank) là các tổ chức, thực thể thường dựa trên thế mạnh về công nghệ, đổi mới sáng tạo, hệ sinh thái số … để cung ứng dịch vụ và vận hành chỉ trên kênh số dựa trên giấy phép hoạt động ngân hàng của một ngân hàng truyền thống bảo trợ (sponsoring bank) hoặc được cấp phép theo một khung khổ cấp phép ngân hàng số riêng.
Đại diện nhóm đề tài cũng trình bày tiếp cận pháp lý của các nước trong quản lý, cấp phép ngân hàng số; khuôn khổ cấp phép, quản lý, giám sát ngân hàng số một số quốc gia như Anh, Hàn Quốc… từ đó đề cập đến một số mô hình phát triển hoạt động ngân hàng số tại Việt Nam như: Chuyển đổi số, phát triển hoạt động ngân hàng số tại ngân hàng truyền thống. Chuyển đổi số, số hóa ngân hàng hiện hữu: Số hóa những mảng nghiệp vụ, hoặc từng quy trình, sản phẩm – dịch vụ tương tác trực tiếp với khách hàng (front - end), đem lại giá trị cho ngân hàng. Thiết lập thương hiệu, kênh ngân hàng số trực thuộc ngân hàng mẹ. Thiết lập thương hiệu/ kênh ngân hàng số mới ngay trong lòng ngân hàng hiện hữu, áp dụng với một phân khúc và định vị giá trị khách hàng cụ thể đồng thời với số hóa ngân hàng hiện hữu. Thiết lập nền tảng ngân hàng số như công ty con trực thuộc ngân hàng mẹ: nền tảng Tnex của MSB.
Hợp tác giữa ngân hàng – Fintech: Thiết lập nền tảng dịch vụ ngân hàng số. Xu hướng hợp tác giữa ngân hàng và các công ty Fintech để thiết lập nền tảng dịch vụ ngân hàng số với mo hình tổ chức kinh doanh, thiết lập pháp lý khác biệt; hoạt động dựa trên Giấy phép thành lập và hoạt động của ngân hàng đối tác/ bảo trợ, mà không được cấp phép hoạt động riêng. Nền tảng dịch vụ ngân hàng số Cake- hợp tác giữa VPbank và Be Group thuộc cơ cấu ngân hàng mẹ- VPbank, dựa trên giáy phép VPbank. Nền tảng dịch vụ ngân hàng số Timo Plus – Hợp tác giữa Công ty giải pháp tài chính trực tuyến toàn cầu (Gofs) và Bản Việt. nền tảng ngân hàng số Liobank, kết quả hợp tác giữa ngân hàng OCB và công ty Fintech Farm.
Đề tài cũng đưa ra một số kiến nghị. Đối với Đảng, Nhà nước, Chính phủ : Cụ thể hóa định hướng quản lý các mô hình hợp tác cung ứng dịch vụ ngân hàng số. Có cơ chế quản lý, khuyến khích thử nghiệm, thí điểm, đổi mới sáng tạo. Sớm ban hành Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng. Thúc đẩy tiến độ nghiên cứu, xây dựng Luật Giao dịch điện tử, Luật TCTD…
Đối với NHNN: Bổ sung cơ chế chính sách, quy định pháp lý tạo điều kiện chuyển đổi số, phát triển hoạt động ngân hàng số. Bổ sung quy định về quản lý, thanh tra, giám sát đối với các mô hình ngân hàng số hợp tác giữa ngân hàng và công ty Fintech. Phối hợp với các Bộ, ngành sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật liên quan: Luật giao dịch điện tử; cơ chế kết nối, khai thác, chia sẻ dữ liệu với cơ sở dữ liệu quốc gia dân cư. Trong dài hạn, tham mưu ứng xử chính sách phù hợp đối với mô hình ngân hàng số trên cơ sở tổng kết Đề án tái cơ cấu TCTD và rà soát quy định pháp luật.
Còn đối với TCTD: Xây dựng và triển khai Kế hoạch/Chiến lược chuyển đổi số. Áp dụng giải pháp, công nghệ tiên tiến trong quá trình chuyển đổi số, phát triển dịch vụ ngân hàng số. Xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung, đẩy mạnh phân tích dữ liệu, tối ưu hóa quy trình vận hành, tăng hiệu quả hoạt động. Thường xuyên rà soát, đánh giá rủi ro, đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật trong mô hình hợp tác Fintech để cung cấp dịch vụ ngân hàng số.
Tại hội thảo các đại biểu đã trao đổi một số vấn đề từ kết quả đề tài như: Một số kết quả ứng dụng của đề tài trong xây dựng chính sách thúc đẩy hoạt động ngân hàng số; đề xuất ứng xử chính sách của Việt Nam đối với cấp phép, quản lý các mô hình ngân hàng số; đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng số tại Việt Nam…
NN