Trong năm 2022, IMF đã tiến hành khảo sát với nhóm các quốc gia IMF và các quốc gia ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, bao gồm 36 nền kinh tế châu Á, 7 nền kinh tế phát triển, 10 nền kinh tế mới nổi, 8 quốc gia thu nhập thấp và 11 quốc đảo Thái Bình Dương, kết hợp với 14 nghiên cứu điển hình (case studies) cung cấp thêm chi tiết về bối cảnh tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương (CBDC). Kết quả khảo sát của IMF đã mang đến những thông tin quan trọng và bài học kinh nghiệm hữu ích cho các quốc gia trong quá trình nghiên cứu phát hành CBDC thời gian tới.
Châu Á - Thái Bình Dương đi đầu trong việc nghiên cứu CBDC
Việc nghiên cứu, thử nghiệm CBDC của các quốc gia Châu Á - Thái Bình Dương đang ở những giai đoạn phát triển khác nhau, trong đó: Trung Quốc bắt đầu công bố thử nghiệm CBDC vào năm 2019; Ấn Độ và Thái Lan đang ở giai đoạn nâng cao trong nghiên cứu CBDC nhằm triển khai thử nghiệm CBDC thời gian tới; trong khi đó, Úc đã công bố thử nghiệm CBDC trên quy mô hạn chế vào tháng 8/2022; Hàn Quốc, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a và Singapore đã bắt đầu chứng minh thực nghiệm (PoC) về CBDC, và 12 nền kinh tế Châu Á khác hiện đang ở giai đoạn nghiên cứu và phát triển (R&D). Ngay cả những quốc gia hiện không quan tâm đến R&D (như Bangladesh, Maldives…) cũng quan tâm đến CBDC và đang tìm cách học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác.
Các NHTW ở Châu Á quan tâm đến cả CBDC bán buôn và bán lẻ
Động lực để các NHTW tập trung phát triển CBDC bán buôn là việc nâng cao hiệu quả và tính an toàn, bảo mật của các hệ thống thanh toán, đặc biệt là đối với các giao dịch thanh toán xuyên biên giới, đồng thời, giảm thiểu chi phí giao dịch. Điều này cũng được phản ánh trong cuộc khảo sát mới nhất của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) về CBDC năm 2022, trong đó, hiệu quả hoạt động của hệ thống thanh toán đã trở thành tác nhân chính cho phát triển CBDC những năm qua. Gần đây là Dự án Dunbar1 nghiên cứu về CBDC cho thanh toán quốc tế với sự tham gia của các NHTW Úc, Ma-lai-xi-a, Singapore và Nam Phi, cùng với Trung tâm đổi mới sáng tạo của BIS (BIS Inovation Hub - BISIH). Tương tự, thử nghiệm ban đầu từ Dự án mBridge2 CBDC khác nhau (gồm Trung Quốc, Đặc khu hành chính Hồng Kông, Thái Lan, các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất phối hợp với BISIH) cho thấy kết quả đầy triển vọng về mặt thời gian và hiệu quả chi phí.
Mặt khác, ở khía cạnh CBDC bán lẻ, sự quan tâm bắt nguồn từ mong muốn của NHTW nhằm đáp ứng nhu cầu về tiền mặt kỹ thuật số/thanh toán số và cung cấp giải pháp thay thế cho tiền mã hóa khu vực tư nhân. Các quốc gia ngày càng quan ngại về rủi ro ổn định tài chính tiềm ẩn từ các tài sản mã hóa tác động của chúng đến hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHTW, đặc biệt là tại các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi. Đơn cử như Thái Lan đã cấm sử dụng tài sản mã hóa làm phương tiện thanh toán hợp pháp (có hiệu lực từ tháng 4/2022) để phòng ngừa rủi ro thay thế tiền tệ, giảm hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và bảo vệ người tiêu dùng… khi giá trị tiền mã hóa biến động. Những quan ngại này đã trở lên nghiêm trọng hơn bởi sự biến động bất thường về giá trị của các tài sản mã hóa trên thị trường.
Chỉ một số quốc gia có thẩm quyền pháp lý phát hành CBDC, trong khi các quốc gia khác đang có kế hoạch cải cách pháp lý
Việc phát hành CBDC đặt ra yêu cầu cần phải có khung pháp lý làm cơ sở để các NHTW có thẩm quyền triển khai thực hiện. Trong một số trường hợp, điều này sẽ đòi hỏi thẩm quyền pháp lý của NHTW hoặc luật hiện hành khác để phát hành cả tiền pháp định và tiền kỹ thuật số. Hiện tại, chỉ có 2 quốc gia ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có thẩm quyền pháp lý để phát hành CBDC, bao gồm Trung Quốc, quốc gia gần đây đã sửa đổi Luật để cho phép phát hành CBDC, và Philippines, nơi NHTW có quyền sở hữu và tổ chức vận hành hệ thống thanh toán, và các cơ quan quản lý tin tưởng rằng thẩm quyền này có thể được sử dụng để tạo điều kiện phát hành CBDC bán buôn, trong khi khung pháp lý hiện hành không thể đáp ứng việc phát hành CBDC bán lẻ. Tại Ấn Độ, Đặc khu hành chính Macao, luật đang trong quá trình sửa đổi để cho phép các NHTW thẩm quyền phá hành CBDC, ngoài ra còn có Hàn Quốc, Sri Lanka và Thái Lan. Tuy vậy, khảo sát của IMF cũng cho thấy nhiều quốc gia không chắc chắn về việc liệu luật hiện hành có phải được sửa đổi để cung cấp thẩm quyền pháp lý cho việc phát hành CBDC hay không và một số quốc gia hiện đang tích cực tìm hiểu về vấn đề này.
Các quốc gia quan tâm đến CBDC ở mức độ khác nhau theo nhóm thu nhập
Khảo sát của IMF cho thấy các quốc gia có thu nhập cao thường có chiều hướng quan tâm nhiều hơn đến khả năng của CBDC trong việc nâng cao hiệu quả và tính an toàn của hệ thống thanh toán, cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về tiền mặt và thanh toán số. Đối với các quốc gia có thu nhập trung bình, ngoài hiệu quả của hệ thống thanh toán, thúc đẩy tài chính toàn diện và ổn định tài chính cũng là những đòn bẩy quan trọng đối với việc phát triển CBDC. Mặt khác, một số quốc gia như Lào và Nepal lại coi phát triển khu vực là động lực chính, trong khi bảo đảm chủ quyền tiền tệ là ưu tiên hàng đầu đối với Ấn Độ.
Mặc dù có sự quan tâm đáng kể đến CBDC, nhưng rất ít quốc gia có khả năng phát hành CBDC trong tương lai gần
Dựa trên các câu trả lời khảo sát, chỉ có hai quốc gia trong khu vực là Ấn Độ và Trung Quốc là có khả năng phát hành CBDC bán lẻ trong thời gian tới. Từ năm 2019, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PboC) đã bắt đầu thử nghiệm đồng e-CNY và mở rộng ra 23 thành phố và khu vực vào năm 2022; một thử nghiệm kỹ thuật khác về việc sử dụng e-CNY xuyên biên giới cũng được tiến hành tại Đặc khu hành chính Hồng Kông. Ấn Độ đã công bố kế hoạch phát hành CBDC bán lẻ vào năm 2023, hay Thái Lan có kế hoạch triển khai thử nghiệm vào quý 4 năm 2022, tuy vậy, khó có thể triển khai đầy đủ trong thời gian tới. Theo IMF, lý do là quyết định phát hành theo kế hoạch hoặc thử nghiệm CBDC bán lẻ ở các quốc gia này một phần được thúc đẩy bởi tiến trình số hóa hoạt động thanh toán, cũng như sự xuất hiện của tài sản mã hóa vốn là xu hướng được tăng tốc rất mạnh mẽ trong thời kỳ đại dịch Covid-19.
Ngược lại, không có quốc gia nào cam kết phát hành CBDC bán buôn trong tương ngắn hạn và trung hạn. 9/10 NHTW được báo cáo là có khả năng phát hành CBDC bán buôn, trong khi chỉ có 5 NHTW có khả năng phát hành CBDC bán lẻ trong ngắn hạn và trung hạn. Điều này trái ngược với kết quả khảo sát năm 2021 của BIS, trong đó tỷ lệ trả lời có khả năng phát hành CBDC bán lẻ (68%), cao hơn so với CBDC bán buôn (54%).
Nhiều thách thức đặt ra khi áp dụng CBDC và các nước châu Á đang trong giai đoạn thử nghiệm để tìm ra giải pháp phù hợp
Tất cả các quốc gia đang phải đối mặt với vô số thách thức, ở một mức độ nào đó, và theo quan sát của IMF có chín (09) thách thức chính đang nổi lên gần đây, đó là: quyền riêng tư, khả năng kết nối liên thông, hiệu suất và khả năng nhân rộng, an ninh mạng, tuân thủ, khung pháp lý (bao gồm cả tính toàn vẹn tài chính), hàm ý chính sách (chính sách tiền tệ và ổn định tài chính), hoạt động mạnh mẽ và khả năng phục hồi/chống chịu và khả năng thích ứng với công nghệ mới.
Cuộc khảo sát cũng cho thấy một số thách thức bổ sung dành riêng cho từng quốc gia, như: (i) Thị trường tài chính non trẻ và năng lực hạn chế (Bhutan); (ii) Tích hợp CBDC bán lẻ và bán buôn, đồng thời tận dụng dữ liệu từ các dạng tiền số mới và công nghệ tài chính (fintech) để hỗ trợ quá trình cơ quan quản lý ra quyết định chính sách (In-đô-nê-xi-a); (iii) Thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua cân bằng, hài hòa các thỏa thuận chia sẻ vai trò giữa NHTW và tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán, cũng như thanh toán xuyên biên giới (Nhật Bản); (iv) Quyết định các yêu cầu về thiết kế, công nghệ và khả năng tương tác phù hợp khi hệ thống CBDC tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh (Philippines).
Sự cần thiết học hỏi kinh nghiệm giữa các quốc gia, bất kể giai đoạn phát triển nào khi ra mắt CBDC
Mặc dù hầu hết các quốc gia Châu Á - Thái Bình Dương đã tiến hành một số hình thức nghiên cứu hoặc phân tích về CBDC, nhưng rõ ràng là các quốc gia rất mong muốn được học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau thông qua các diễn dàn chia sẻ kiến thức và các thông lệ tốt nhất. Các lĩnh vực được xác định để chia sẻ kiến thức là trên diện rộng, phản ánh đa chiều thách thức trong việc áp dụng CBDC. Trước thực tế đó, một số quốc gia đã đề xuất các lĩnh vực mới để chia sẻ kiến thức, chẳng hạn: In-đô-nê-xi-a đã đề xuất về tìm hiểu tích hợp CBDC bán lẻ và bán buôn; Maldives đề xuất nghiên cứu về sự phát triển từ thanh toán di động sang CBDC, Philippines đề xuất mong muốn có thông tin về cách đánh giá liệu NHTW đã sẵn sàng ra mắt hay chưa một CBDC, Việt Nam xem xét đến khả năng tổ chức một Hội nghị quốc tế về CBDC, hay Bhutan muốn có các sáng kiến tăng cường năng lực về chủ đề này. Gần đây, IMF đã tăng cường vai trò của mình trong việc chia sẻ kiến thức thông qua một loạt các tài liệu phân tích và khảo sát cho thấy các vấn đề liên quan đến CBDC cũng đang được đề cập ngày càng nhiều ở các nước châu Á thông qua hoạt động giám sát song phương.
Bài học kinh nghiệm
Dựa trên khảo sát về thực tiễn thử nghiệm CBDC tại các quốc gia Châu Á - Thái Bình Dương và thông qua quan sát, nghiên cứu của mình, IMF đã đúc kết một số bài học kinh nghiệm để NHTW các quốc gia, các nhà hoạch định chính sách trong các khu vực khác nhau có thể nghiên cứu, vận dụng trong quá trình phát triển CBDC trong tương lai, bao gồm: (i) Sự quan tâm của khu vực công đối với các giải pháp tiền kỹ thuật số đã tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây; (ii) Ở hầu hết các nền kinh tế, sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của tiền mã hóa/tiền ảo và các công nghệ liên quan, cũng như mức độ hoặc tốc độ áp dụng của chúng có khả năng quyết định mức độ sẵn sàng của các NHTW đối với CBDC; (iii) Đối với các nền kinh tế phát triển, trọng tâm có thể vẫn sẽ là tính tương thích của các thiết kế CBDC (bán lẻ, bán buôn) với khung khổ tiền tệ và thanh toán của họ; (iv) Các nền kinh tế thị trường mới nổi có khả năng tiếp tục xem xét CBDC chủ yếu để nâng cấp hệ thống thanh và thúc đẩy tài chính toàn diện; (v) Việc sử dụng CBDC cho hoạt động thanh toán xuyên biên giới có thể đóng vai trò quan trọng và đòi hỏi nhiều công việc hơn nữa; và (vi) Truyền thông và trao đổi thông tin nhiều hơn giữa các quốc gia và các cơ quan thiết lập tiêu chuẩn, qua đó tăng cường năng lực xây dựng chính sách./.
NMĐ (Theo IMF).