Tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội Khóa XIII, Ngân hàng Nhà nước nhận được chất vấn của đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Hồng Hà- Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội.
Câu hỏi:
1. Khi NHNN tuyên bố sẽ không để NHTM nào phá sản, cử tri rất băn khoăn vì chưa thấy có cơ chế khả thi nào để kiểm soát sự lạm dụng, sự vô trách nhiệm của các NHTM này; để giảm thiểu việc kinh doanh “chụp giật”, gây lỗ rồi chờ NHNN cứu bằng tiền của dân? Xin Thống đốc cho biết quan điểm của mình về ý kiến nêu trên?
2. Xin Thống đốc giải thích cho cử tri biết: Vì sao việc xử lý nợ xấu lại giao cho NHNN thực hiện mà không thông qua thị trường và công ty mua bán nợ nhà nước? Thống đốc có thể đảm bảo sẽ không có sự lạm dụng xin – cho, sẽ không có lợi ích nhóm khi NHNN đảm nhiệm việc này hay không? Và lấy nguồn tiền nào để thực hiện việc này?
3. Trong hoàn cảnh cả nền kinh tế đang thực hiện Nghị quyết 11/CP, xin ông cho biết tình hình cho vay tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp ra sao? Và có đảm bảo được chỉ tiêu 20% tổng dư nợ cho vay nông nghiệp như Thống đốc NHNN đã hứa không?
4. Đề nghị Thống đốc cho cử tri biết: Vì sao giá vàng trong nước và ngoài nước lại chênh lệch quá lớn và kéo dài như vừa qua? Ai được hưởng lợi nhuận thu được từ việc chênh lệch giá? Ngân sách Nhà nước hay các công ty kinh doanh vàng? Đến bao giờ thì NHNN mới công bố chính thức các tiêu chuẩn hình thức, chất lượng và điều kiện cung ứng/giao dịch vàng thương hiệu quốc gia?
5. Cử tri cho rằng, tinh thần của Nghị quyết 11/CP và Nghị quyết 13/CP cũng như các chính sách về tài chính, về cải cách thủ tục hành chính là tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động, nhưng cả năm 2011 và từ đầu năm 2012 đến nay, doanh nghiệp vẫn khó khăn, vẫn phá sản, vẫn ngững hoạt động với số lượng rất lớn và nợ xấu trong hệ thống ngân hàng ngày càng tăng cao. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do trong thời gian dài, lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp quá cao, chênh lệch giữa lãi suất vay và lãi suất cho vay quá lớn. Xin Thống đốc cho cử tri biết trách nhiệm của mình trong chỉ đạo điều hành để xảy ra tình trạng trên?
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xin trả lời Đại biểu Nguyễn Thị Hồng Hà như sau:
1. Về vấn đề vàng:
1.1. Về nguyên nhân chênh lệch giữa giá vàng trong nước với giá vàng thế giới và ai là người hưởng lợi:
Thời gian qua, giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới do hai nguyên nhân: (i) Các TCTD có huy động và cho vay vốn bằng vàng gia tăng mua vàng để giảm số dư huy động vàng đã sử dụng (Theo thống kê trong thời gian qua các TCTD đã mua vào hơn 60 tấn vàng); (ii) NHNN không cấp phép nhập khẩu vàng vì vàng không phải là mặt hàng thiết yếu, đồng thời, để tiết kiệm nguồn ngoại tệ, phục vụ các nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế. Mặc dù, giá vàng trong nước và thế giới biến động mạnh, nhưng không như thời gian trước đây, khoảng cách lớn giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới không đi kèm với hiện tượng “sốt vàng”, cũng không kéo theo hiện tượng nhập lậu vàng qua biên giới. Nhờ đó, tỷ giá và thị trường ngoại tệ tương đối ổn định, không bị tác động tiêu cực bởi sự biến động của giá vàng.
Với việc giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới, có thể khẳng định người dân bán vàng thời gian qua đã được hưởng lợi và các TCTD phải chấp nhận chi phí cao khi mua lại vàng trên thị trường để chi trả số vàng huy động đến hạn.
1.2. Về công bố các tiêu chuẩn, hình thức, chất lượng và điều kiện cung ứng/giao dịch vàng thương hiệu quốc gia:
Trước khi Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (Nghị định 24) được ban hành, thương hiệu vàng SJC đã được thị trường lựa chọn là thương hiệu có uy tín và chất lượng cao. Vàng miếng SJC chiếm trên 90% lượng vàng miếng trong lưu thông, giá vàng miếng SJC kể cả trong điều kiện thị trường ổn định cũng thường cao hơn giá của các loại vàng miếng khác. Do đó, trên cơ sở quy luật của thị trường và để tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và cho xã hội, NHNN đã trình và được Chính phủ cho phép sử dụng thương hiệu vàng miếng SJC là thương hiệu vàng của Nhà nước và yêu cầu Công ty SJC gia công vàng miếng cho Ngân hàng Nhà nước. Công ty SJC không được sản xuất vàng miếng mà chỉ được gia công vàng miếng SJC 99,99% khi được yêu cầu dưới sự giám sát chặt chẽ của NHNN. Việc Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng thông qua sử dụng thương hiệu vàng miếng SJC và yêu cầu Công ty SJC gia công vàng miếng cho NHNN là phù hợp với mục tiêu của Nhà nước về tổ chức, sắp xếp lại thị trường vàng, đảm bảo lợi ích cho người dân và hoàn toàn không có lợi ích nhóm hay lợi ích cho Công ty SJC.
Quyết định 1623/QĐ-NHNN ngày 23/8/2012 về tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng của NHNN quy định rõ Công ty SJC chịu trách nhiệm về khối lượng và chất lượng sản phẩm vàng miếng SJC, đồng thời quy định NHNN tổ chức sản xuất vàng miếng hàm lượng 99,99%, có đóng chữ, số chỉ khối lượng chất lượng và ký mã hiệu của Công ty SJC. Căn cứ vào Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Công ty SJC đã công bố chất lượng sản phẩm do mình sản xuất. Công ty SJC cũng đã đăng ký bảo hộ thương hiệu vàng miếng SJC theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp NHNN quyết định sản xuất vàng miếng thương hiệu riêng, NHNN sẽ công bố tiêu chuẩn hình thức, chất lượng và điều kiện giao dịch vàng miếng thương hiệu của NHNN theo quy định của pháp luật.
2. Về vấn đề xử lý nợ xấu:
- Về ý kiến: “việc xử lý nợ xấu giao cho NHNN thực hiện mà không thông qua thị trường và công ty mua bán nợ nhà nước”:
Nợ xấu của hệ thống các TCTD là vấn đề kinh tế vĩ mô và phát sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nợ xấu lớn và có chiều hướng tăng nhanh trong hệ thống các TCTD đang tác động tiêu cực đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và an toàn, hiệu quả kinh doanh của các TCTD. Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, chịu trách nhiệm về việc đảm bảo an toàn cho hệ thống các TCTD, Chính phủ đã giao NHNN chủ trì đề xuất các giải pháp xử lý nợ xấu chứ không phải giao cho riêng NHNN xử lý nợ xấu. Để xử lý được nợ xấu cần có sự chung tay của các bộ, ngành, địa phương, các ngân hàng và doanh nghiệp.
Để xử lý nhanh nợ xấu, cần phải kết hợp đồng bộ các giải pháp, trong đó có cả các biện pháp thông qua thị trường như bán nợ, cơ cấu lại nợ; thông qua công ty mua bán nợ, tài sản tồn đọng của doanh nghiệp thuộc Bộ Tài chính, qua các công ty mua bán nợ của các NHTM. Hiện nay, năng lực xử lý nợ của các công ty mua bán nợ của Nhà nước và các NHTM còn rất hạn chế, nên cần phải có một công ty tầm cỡ quốc gia có đủ năng lực tài chính và trình độ chuyên môn để xử lý nợ xấu với quy mô lớn. Vì vậy, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đang xây dựng Đề án thành lập Công ty quản lý tài sản để tham gia xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng.
- Về vấn đề bảo đảm không có sự lạm dụng xin – cho, lợi ích nhóm?
Nguyên tắc trong xử lý nợ xấu ngân hàng phải là bảo đảm công khai, minh bạch, theo nguyên tắc thị trường và đúng pháp luật. Trường hợp TCTD tự xử lý thì không có cơ chế “xin cho”. Trường hợp xử lý qua công ty quản lý tài sản thì nguyên tắc công khai, minh bạch được thể hiện ở chỗ mọi việc định giá nợ, tài sản bảo đảm do một bên độc lập tiến hành và việc mua bán dựa trên cơ sở tự nguyện. Do đó, việc xử lý nợ xấu sẽ không có sự lạm dụng xin – cho, không có lợi ích nhóm, bởi vì giao dịch chủ yếu là giữa các doanh nghiệp, TCTD với nhau. Nhà nước đóng vai trò tạo lập các điều kiện thuận lợi và các thiết chế cho việc xử lý nợ xấu có hiệu quả nhất.
- Về nguồn vốn xử lý nợ xấu:
Nguyên tắc trong xử lý nợ xấu của các TCTD được Ngân hàng Nhà nước xác định là: TCTD và khách hàng vay phải chịu trách nhiệm chính về các khoản nợ xấu phát sinh và chia sẻ tổn thất trong việc xử lý nợ xấu; Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm xử lý các khoản nợ xấu trong cho vay các đối tượng chính sách hoặc cho vay theo chỉ định của Chính phủ và hỗ trợ cho việc xử lý nợ xấu của các TCTD thông qua việc ban hành các cơ chế, chính sách, tạo lập và quản lý thị trường mua bán nợ. Nhà nước chỉ can thiệp xử lý nợ xấu bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước khi cần thiết và phải được sự cho phép của các cơ quan có thẩm quyền để bảo đảm sự an toàn của hệ thống ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế trên nguyên tắc bảo đảm có hiệu quả kinh tế - xã hội.
Vì vậy, nguồn vốn để xử lý nợ xấu trong thời gian tới chủ yếu là nguồn vốn huy động trong xã hội và sử dụng các công cụ tài chính như: Công ty quản lý tài sản mua nợ xấu của ngân hàng và dùng trái phiếu doanh nghiệp để thanh toán cho các khoản nợ xấu mua được, bán nợ cho nhà đầu tư...
3. Về cơ chế hạn chế, kiểm soát sự lạm dụng “ không để phá sản” của các ngân hàng thương mại:
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, tại Đề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2011-2015 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định: Trong giai đoạn hiện nay chưa áp dụng giải pháp phá sản tổ chức tín dụng theo quy định của Luật phá sản để bảo đảm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Pháp luật hiện nay có những quy định hạn chế, kiểm soát sự lạm dụng “không để phá sản” ngân hàng và làm mất vốn rồi dựa vào tiền cứu trợ của NHNN như sau:
Thứ nhất, NHNN không cứu trợ một cách vô điều kiện. TCTD thiếu thanh khoản có thể được NHNN cho vay tái cấp vốn nhưng phải có tài sản bảo đảm để NHNN có thể thu hồi đủ số tiền tái cấp vốn nếu TCTD không trả được NHNN số tiền tái cấp vốn. TCTD có thể được NHNN cho vay đặc biệt, tuy nhiên khoản cho vay đặc biệt được ưu tiên hoàn trả trước các khoản nợ khác hoặc được chuyển thành vốn góp, vốn cổ phần của NHNN tại TCTD.
Thứ hai, TCTD có nguy cơ mất khả năng chi trả, lỗ luỹ kế hơn 50% giá trị thực của vốn điều lệ và quỹ dự trữ sẽ bị NHNN đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, đồng thời phải thực hiện một trong các biện pháp: Chủ sở hữu phải tăng vốn để bù đắp tổn thất và đạt được mức vốn pháp định cũng như các chỉ tiêu an toàn hoạt động; Thực hiện kế hoạch tái cơ cấu hoặc bắt buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại nếu chủ sở hữu không tăng được vốn; NHNN trực tiếp hoặc chỉ định TCTD khác góp vốn, mua cổ phần của TCTD bắt buộc.
Thứ ba, theo quy định của Luật NHNN, trong quá trình thanh tra, giám sát tuỳ theo mức độ rủi ro của TCTD mà NHNN có thể áp dụng các biện pháp xử lý khác nhau, kể cả phải chuyển nhượng vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần; cổ đông lớn, cổ đông nắm quyền kiểm soát, chi phối phải chuyển nhượng cổ phần.
Tiền hỗ trợ thanh khoản của NHNN cho TCTD không phải là khoản cứu trợ vô điều kiện và kiểm soát đặc biệt, bắt buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại là các biện pháp rất mạnh mà các NHTM rất không muốn có. Các NHTM hoạt động yếu kém đe dọa đến sự an toàn, lành mạnh của hệ thống và quyền lợi của người gửi tiền sẽ phải được xử lý nghiêm minh.
4. Về vấn đề lãi suất cho vay quá cao gây khó khăn cho doanh nghiệp:
Trong năm 2011, trước bối cảnh lạm phát tăng cao và rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô gia tăng, bám sát chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011, Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa thắt chặt để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Việc thực thi chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng đã góp phần quan trọng làm giảm dần tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2011 và tập trung được nguồn vốn cho lĩnh vực sản xuất – kinh doanh.
Bên cạnh những kết quả tích cực, chính sách tiền tệ chặt chẽ cũng tác động làm tăng mặt bằng lãi suất huy động và cho vay VND, phần nào gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây không phải là nguyên nhân chính khiến doanh nghiệp gặp khó khăn, phá sản, ngừng hoạt động và nợ xấu tăng cao. Các nguyên nhân chủ yếu khiến doanh nghiệp gặp khó khăn, gồm: (i) Sức mua của thị trường giảm sút, doanh nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm dẫn đến hàng tồn kho lớn và thua lỗ, nhiều doanh nghiệp buộc phải tạm ngừng sản xuất, giảm quy mô kinh doanh, thậm chí ngừng hoạt động hoặc phá sản; (ii) Nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa áp dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ và nguồn nhân lực có chất lượng cao vào quá trình sản xuất dẫn đến năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao, không có sức cạnh tranh nên không bán được hàng; (iii) Một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp có tình hình tài chính không lành mạnh, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu lớn, năng lực quản trị, điều hành yếu....
Kể từ tháng 9/2011, trước những dấu hiệu tích cực của lạm phát và các cân đối vĩ mô, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp nhằm giảm dần mặt bằng lãi suất cho vay. Đến tháng 3/2012, thực hiện chủ trương của Chính phủ về việc tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ thị trường, NHNN tiếp tục triển khai đồng bộ nhiều giải pháp giảm nhanh mặt bằng lãi suất phù hợp với diễn biến chỉ số giá tiêu dùng và cung cầu vốn trên thị trường. Đồng thời, chỉ đạo các TCTD tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay và chủ động rà soát, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng với lãi suất hợp lý Điều chỉnh giảm lãi suất đối với các khoản vay cũ xuống mức tối đa 15%/năm kể từ 15/7/2012.
Đến nay, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm mạnh so với cuối năm 2011 với mức giảm từ 3-8%/năm. Tính đến 25/10/2012, tỷ trọng dư nợ cho vay với lãi suất trên 15%/năm trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng đã giảm từ mức 65% (trước ngày 15/7/2012) xuống còn 20%; trong đó, tỷ trọng giảm mạnh nhất là nhóm 5 NHTM nhà nước với mức giảm từ 61% xuống 4,5%.
5. Về vấn đề tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn:
Dư nợ cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của các ngân hàng thương mại đến 30/9/2012 (chưa bao gồm Ngân hàng Chính sách Xã hội) đạt 525.383,5 tỷ đồng, tăng 5,3% so với thời điểm 31/12/2011 và tăng gấp đôi mức tăng trưởng tín dụng chung của cả nước. Đây là mức tăng trưởng tín dụng nông nghiệp, nông thôn thấp nhất trong những năm trở lại đây. Tuy nhiên, trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ và những khó khăn chung của nền kinh tế trong nước và thế giới thì đây là một sự cố gắng rất lớn của hệ thống các TCTD vì mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn của nước ta.
Hiện nay, tỷ trọng cho vay nông nghiệp, nông thôn của các tổ chức tín dụng chiếm khoảng 18% trên tổng dư nợ đối với nền kinh tế, nếu tính cả các chương trình tín dụng chính sách của Ngân hàng Chính sách Xã hội thì tỷ trọng này khoảng 22%. Việt Nam đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất nông nghiệp đóng góp trong GDP tăng lên về mặt giá trị nhưng tỷ trọng có xu hướng giảm xuống, vì vậy với tốc độ và tỷ trọng tín dụng dành cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hiện nay là phù hợp với khả năng hấp thụ vốn trong lĩnh vực này.
Trên đây là ý kiến trả lời của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về nội dung chất vấn của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Hồng Hà. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước mong tiếp tục nhận được sự quan tâm của Đại biểu Quốc hội đối với hoạt động ngân hàng.