Hiện việc điều hành tỷ giá đã được cải cách theo hướng nới lỏng hơn trước. Tuy nhiên, do nước ta vẫn nhập siêu, cầu ngoại tệ mạnh lớn hơn cung ngoại tệ mạnh, nên tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do thường cao hơn so với quy định của NHNN, dẫn đến chưa quản lý tập trung được lượng ngoại tệ lớn vào NH.
Việc Chính phủ thực hiện các biện pháp khoanh nợ, xóa nợ cũng tạo ra tâm lý ỷ lại của khách hàng, đặc biệt là DNNN trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ những khoản vay của các NHTM.
Thêm nữa, hiện quy định của NHNN về phân loại nợ và trích lập rủi ro chưa phù hợp theo tiêu chuẩn phân loại nợ quốc tế. Việc xác định nợ xấu theo kỳ hạn quá hạn chưa phản ánh đúng chất lượng và mức rủi ro tín dụng thực tế của hệ thống NH Việt Nam và đặc biệt việc cho gia hạn rộng rãi đã che đậy phần nào các khoản vay “có vấn đề” và các rủi ro tiềm ẩn.
Do đó, để khắc phục khó khăn của hệ thống NH Việt Nam và hướng tới phù hợp với thông lệ quốc tế, cần phải bổ sung, hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động tiền tệ - tín dụng phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tế của Việt Nam như: hoàn thiện Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các TCTD, Luật Các công cụ chuyển nhượng. Tiến hành rà soát, bổ sung và chỉnh sửa cơ chế, chính sách và các văn bản phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết với các tổ chức quốc tế về lĩnh vực tiền tệ, NH.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý đối với NHTM; đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách về tín dụng, bảo đảm tiền vay, ngoại hối, huy động vốn, thanh toán... theo hướng NHNN không can thiệp cụ thể đến hoạt động kinh doanh của các TCTD, thực sự trao quyền tự chủ kinh doanh cho các TCTD và tăng cường hoạt động quản lý, giám sát của NHNN để bảo đảm an toàn và hiệu quả hoạt động của các TCTD.
Ngoài ra, cần đổi mới chính sách quản lý ngoại hối, thực hiện chính sách ngoại hối mở, khuyến khích xuất khẩu và thu hút các nguồn ngoại tệ chảy vào nền kinh tế nước ta; đồng thời, nâng cao hiệu quả cơ chế quản lý ngoại hối và phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường tài chính quốc tế; tiếp tục tăng vốn tự có cho các NHTM bằng cách cấp vốn bổ sung và tạo cơ chế cho các NHTM có điều kiện bổ sung tăng trưởng vốn điều lệ để nâng cao năng lực kinh doanh và phù hợp với thông lệ quốc tế; đổi mới phân loại tài sản có, trích lập dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro theo hướng các tiêu chí dần phù hợp với thông lệ quốc tế và xem xét điều kiện, khả năng của NHTM Việt Nam.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục xử lý nợ tồn đọng. Nợ xấu phải được phân loại theo chuẩn mực quốc tế và có bước xử lý thích hợp. Đối với các khoản nợ xấu bắt nguồn từ các chính sách tín dụng có tính bao cấp như cho vay mía đường, đánh bắt thủy sản xa bờ, khắc phục thiên tai bão lụt, cho vay chỉ định, Chính phủ cần hỗ trợ để sớm xử lý dứt điểm, nhanh chóng làm lành mạnh hóa tài chính của các NHTM.
Hai công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ là tỷ giá và lãi suất phải do thị trường quyết định phù hợp với cung, cầu và cạnh tranh trên thị trường. NHNN chỉ đóng vai trò điều tiết tỷ giá, lãi suất thông qua sử dụng các công cụ gián tiếp và chính sách tài chính quốc gia để tác động đến tỷ giá, lãi suất theo quan hệ cung, cầu trên thị trường tiền tệ khi cần thiết. Nghiệp vụ thị trường mở, chiết khấu, hoán đổi tiền tệ, thấu chi, nghiệp vụ tiền gửi được coi là những công cụ được sử dụng thường xuyên trong điều hành tiền tệ và lãi suất. Nâng cao hiệu quả sử dụng nghiệp vụ thị trường mở nhằm điều tiết vốn khả dụng của các TCTD. (Lê Văn Sở - Hà Nội Mới 28/2)