Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29/4/2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (Nghị định số 94/2025/NĐ-CP) là văn bản pháp lý quan trọng về lĩnh vực Fintech, tạo hành lang pháp lý thử nghiệm trong phạm vi kiểm soát về các giải pháp Fintech trong môi trường thực tế, giúp các tổ chức có căn cứ pháp lý để triển khai các hoạt động kinh doanh mới.
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Chuyển đổi số luôn - động lực then chốt giúp ngành Ngân hàng tăng tốc bền vững
Thời gian qua, trước những cơ hội và thách thức mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) mang lại, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, chủ động, tích cực tham gia cuộc CMCN 4.0 như Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0; Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới…
Đáng chú ý, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia - một trong “Bộ tứ chiến lược” để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới.
Xác định phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số luôn là động lực then chốt giúp ngành Ngân hàng tăng tốc bền vững, nâng cao chất lượng, dịch vụ, thời gian qua, ngành Ngân hàng đã tích cực, chủ động trong triển khai các nghị quyết, chỉ thị, Chương trình hành động của Bộ Chính trị, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ và đã đạt được rất nhiều những thành tựu nổi bật trong chuyển đổi số, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) không ngừng hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số ngân hàng. Hạ tầng phục vụ chuyển đổi số ngành Ngân hàng luôn được chú trọng đầu tư, nâng cấp, phát triển. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng xử lý bình quân 820 nghìn tỷ đồng mỗi ngày trong khi hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử xử lý 26 triệu giao dịch mỗi ngày. Hạ tầng thông tin tín dụng quốc gia nâng cấp để gia tăng khả năng xử lý, cập nhật dữ liệu tự động với tỉ lệ cập nhật số liệu thành công từ TCTD đạt mức cao trên 98%. Hơn 117 triệu hồ sơ khách hàng cá nhân và hơn 927 nghìn hồ sơ khách hàng tổ chức đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học (đạt hơn 75% tổng số lượng tài khoản thanh toán tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số). Nhiều sản phẩm, dịch vụ ngân hàng thân thiện giàu tiện ích, đem lại giá trị thiết thực đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng của khách hàng. Nhiều nghiệp vụ cơ bản đã được số hóa hoàn toàn 100%. Đến nay, có gần 87% người Việt Nam trưởng thành có tài khoản ngân hàng, giá trị thanh toán không dùng tiền mặt năm 2024 gấp 25 lần GDP.
Tại Điều 106 Luật Các TCTD số 32/2024/QH15 quy định: “1. Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng là môi trường thử nghiệm việc ứng dụng công nghệ và triển khai sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới trong lĩnh vực ngân hàng có giới hạn về phạm vi, không gian, thời gian thực hiện; tổ chức tham gia cơ chế thử nghiệm có kiểm soát phải đáp ứng điều kiện, tiêu chí xét duyệt tham gia và chịu sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 2. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”
Nghị định Nghị định số 94/2025/NĐ-CP được xây dựng với mục đích chính như sau: (i) Quy định các chuẩn mực, nguyên tắc cho sự vận hành Cơ chế thử nghiệm, đề ra các nguyên tắc, quy trình, thủ tục, tiêu chí xét duyệt, biện pháp kiểm soát đối với việc thử nghiệm các giải pháp Fintech đổi mới sáng tạo tham gia Cơ chế thử nghiệm; (ii) Sử dụng kết quả, thông tin đầu vào của Cơ chế thử nghiệm để sửa đổi, bổ sung quy định hiện hành, ban hành quy định mới, cải cách khung khổ pháp lý của ngành Ngân hàng theo hướng thích ứng, tạo thuận lợi cho hoạt động Fintech; (iii) Thúc đẩy đổi mới sáng tạo các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam dựa trên ứng dụng công nghệ/giải pháp Fintech, tạo thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và bảo đảm an ninh mạng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; (iv) Thúc đẩy phổ cập tài chính toàn diện theo hướng ứng dụng công nghệ/giải pháp Fintech sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân chưa có tài khoản ngân hàng hoặc chưa được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ ngân hàng.
Nghị định số 94/2025/NĐ-CP là văn bản pháp lý quan trọng về lĩnh vực Fintech, là bước đi quan trọng, tạo hành lang pháp lý thử nghiệm trong phạm vi kiểm soát về các giải pháp Fintech trong môi trường thực tế, giúp các tổ chức có căn cứ pháp lý để triển khai các hoạt động kinh doanh mới; đồng thời hỗ trợ các cơ quan quản lý trong việc theo dõi, giám sát và đánh giá rủi ro, từ đó giúp hoàn thiện khung khổ pháp lý về Fintech, tạo thuận lợi cho chuyển đổi số ngành Ngân hàng và góp phần cho công cuộc chuyển đổi số quốc gia.
Nghị định được ban hành đã tạo cơ sở cho các tổ chức tham gia Cơ chế thử nghiệm được triển khai thử nghiệm các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới trong môi trường thực tế và có thể mang lại những giá trị, lợi ích gia tăng cho khách hàng. Đồng thời, thông qua đó, các cơ quan quản lý Nhà nước có thể tăng cường công tác giám sát các hoạt động đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực ngân hàng, đánh giá những rủi ro, lợi ích do giải pháp Fintech mang lại, góp phần bảo đảm an ninh mạng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Kết quả của việc triển khai Cơ chế thử nghiệm là thông tin đầu vào, cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cải cách khuôn khổ khổ pháp lý của ngành Ngân hàng theo hướng thích ứng, tạo thuận lợi cho hoạt động ứng dụng công nghệ Fintech.
Theo Nghị định số 94/2025/NĐ-CP, có 3 giải pháp được xem xét tham gia Cơ chế thử nghiệm gồm: Chấm điểm tín dụng; Chia sẻ dữ liệu qua giao diện lập trình ứng dụng mở (Open API); Cho vay ngang hàng (P2P Lending). NHNN cho biết đây là những giải pháp đã được đánh giá thực tiễn và đạt được sự đồng thuận cao về sự cần thiết phải triển khai thí điểm, đối với với các giải pháp hoàn toàn chưa rõ bản chất thì cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và có thể đề xuất thử nghiệm ở giai đoạn sau để tránh sự nóng vội, chủ quan, có thể gây ra rủi ro, ảnh hưởng đến sự an toàn, ổn định tài chính.
Qua khảo sát, đánh giá thực trạng các lĩnh vực hoạt động của các công ty Fintech tại Việt Nam và qua rà soát các quy định pháp lý hiện hành, NHNN đánh giá các giải pháp tiềm năng nhưng chưa có hành lang pháp lý cần ưu tiên triển khai thử nghiệm trong giai đoạn này và đề xuất 3 giải pháp nêu trên.
Trong quá trình triển khai Nghị định số 94/2025/NĐ-CP, NHNN cho biết sẽ tiếp tục rà soát, cập nhật các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới trong lĩnh vực ngân hàng để đánh giá và đề xuất mở rộng các giải pháp tham gia Cơ chế thử nghiệm.
Fintech mang lại nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế
Trên bình diện khu vực và quốc tế, sự phát triển nhanh chóng, mở rộng phạm vi của việc ứng dụng giải pháp Fintech đã khiến cơ quan quản lý tài chính - tiền tệ của nhiều quốc gia phải đối mặt với những khó khăn, thách thức trong công tác quản lý, giám sát như nguy cơ rửa tiền và tài trợ khủng bố, đảm bảo an ninh mạng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng…, nhiều quốc gia trên thế giới đã có cách tiếp cận chủ động bằng việc thiết lập Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (Vương quốc Anh, Úc, Hồng Kông, Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc...). Trong xu hướng và bối cảnh trên, Việt Nam cần sớm xây dựng một khung khổ quản lý dưới hình thức Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Tại Việt Nam, xu hướng phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới trong lĩnh vực ngân hàng còn được thể hiện rõ nét qua việc cung ứng các giải pháp Fintech của các công ty Fintech dưới hình thức phát triển các giải pháp hỗ trợ hoạt động ngân hàng mà không trực tiếp cung ứng dịch vụ tới người dùng cuối (end-users) hoặc trực tiếp cung ứng giải pháp mới một cách độc lập.
Thời gian gần đây, đã chứng kiến sự hình thành và phát triển của số lượng lớn các công ty Fintech tham gia vào nhiều mảng, lĩnh vực hoạt động tại thị trường Việt Nam. Theo thống kê sơ bộ của NHNN, số lượng các công ty Fintech hoạt động tại Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng từ khoảng 40 công ty vào cuối năm 2016 lên đến trên 200 công ty ở thời điểm hiện tại với nhiều mảng, lĩnh vực hoạt động khác nhau như thanh toán, cho vay ngang hàng (P2P Lending), chấm điểm tín dụng, quản lý tài chính cá nhân... Trong số đó, các công ty hoạt động trong lĩnh vực thanh toán đóng vai trò chủ đạo với 50 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đã được NHNN cấp Giấy phép. Bên cạnh đó, lĩnh vực Fintech còn thu hút được sự tham gia của nhiều công ty, doanh nghiệp công nghệ lớn trong nước, thường là các công ty có thế mạnh về công nghệ, có tập khách hàng lớn như FPT, Viettel, VNPT, Vingroup… thông qua các hoạt động trực tiếp đầu tư hình thành các công ty Fintech, hay gián tiếp thông qua thành lập các quỹ đầu tư, tạo vườn ươm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp Fintech.
Fintech mang lại nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế. Trước hết là tư duy đổi mới khi ứng dụng công nghệ vào lĩnh vực tài chính rất quan trọng, là mạch máu của nền kinh tế. Thông qua các nền tảng gọi vốn cộng đồng hoặc cho vay trực tuyến, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội dễ dàng tiếp cận nguồn vốn hơn.
Fintech có vai trò lớn trong phát triển kinh tế số, như là một chất xúc tác cho kinh tế số, thúc đẩy thương mại điện tử thông qua các giải pháp thanh toán không dùng tiền mặt. Bên cạnh đó, Fintech giúp cải thiện năng suất và hiệu quả trong hoạt động tài chính. Bằng việc tiêu chuẩn hóa, các quy trình được tự động hóa, giảm thiểu chi phí giao dịch và nâng cao trải nghiệm người dùng. Các dịch vụ tài chính kỹ thuật số cũng góp phần đưa Việt Nam gần hơn tới mục tiêu tài chính toàn diện quốc gia. Đặc biệt, ở các vùng nông thôn và nhóm dân cư yếu thế chưa được tiếp cận đầy đủ với các dịch vụ ngân hàng, Fintech nổi lên như một giải pháp có ý nghĩa.
Ở khía cạnh xã hội, một trong những lợi ích quan trọng nhất của Fintech là thúc đẩy tài chính toàn diện, giúp những nhóm đối tượng yếu thế như người dân vùng sâu, vùng xa, người lao động thu nhập thấp có cơ hội tiếp cận các sản phẩm tài chính. Những dịch vụ như thanh toán qua điện thoại, tiết kiệm số hóa và chuyển tiền nhanh đã xóa bỏ rào cản địa lý và chi phí cao. Vì thế Fintech còn được coi như cánh tay nối dài của ngân hàng.
Trên thực tế, nhiều ngân hàng đã bắt tay hợp tác với các doanh nghiệp Fintech để cung ứng một số dịch vụ tiện ích, làm phong phú thêm các sản phẩm, dịch vụ để phục vụ khách hàng. Đây là mối quan hệ đôi bên cùng có lợi. Các công ty Fintech dù có ưu thế về công nghệ, mô hình kinh doanh sáng tạo, đột phá, mang đến những trải nghiệm mới cho người dùng nhưng lại ít kinh nghiệm trong hoạt động tài chính - ngân hàng, hệ thống kiểm soát tuân thủ nội bộ chưa đầy đủ. Trong khi đó, các ngân hàng truyền thống lại có thế mạnh về mạng lưới khách hàng, nguồn nhân lực và kinh nghiệm bộ máy, kiểm soát tuân thủ và hạ tầng công nghệ thông tin được đầu tư lớn. Chính vì vậy, sự kết hợp giữa hai chủ thể trên sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp cho thị trường dịch vụ ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Theo các chuyên gia công nghệ, thách thức lớn nhất của các hệ thống công nghệ thông tin trước đây đó là việc tích hợp các ứng dụng lại với nhau. Thông thường, các ngân hàng phải bỏ ra khá nhiều chi phí để mua phần mềm lớp giữa, bởi giao thức nói chuyện với các phần mềm không giống nhau, mỗi một phần mềm lại viết bằng một ngôn ngữ, tiêu chuẩn khác nhau, được xây dựng theo từng thời kỳ khác nhau dẫn đến công nghệ thay đổi. Để đảm bảo việc tích hợp giữa các ứng dụng với nhau phải tạo ra một người phiên dịch ở giữa gọi là phần mềm lớp giữa. Sự ra đời của Fintech cung cấp giải pháp công nghệ cho ngành dịch vụ tài chính, các Fintech sẽ chuyên làm một nghiệp vụ đặc thù nào đó. Các Fintech với những công nghệ mới họ phát triển các giao thức để nói chuyện với nhau theo một chuẩn mở (Open API). Qua API, các phần mềm có thể “nói chuyện” với nhau dễ dàng, giúp cho ngân hàng có thể biên soạn một hành trình khách hàng đầy đủ, xuyên suốt từ đầu tới cuối thuận tiện hơn.
Có thể thấy, Fintech không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới cho ngành Ngân hàng mà còn tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế số và thúc đẩy tài chính toàn diện. Trong bối cảnh chuyển đổi số đang là xu thế tất yếu, việc ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP với Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát là bước đi kịp thời, cần thiết, thể hiện quyết tâm của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước trong việc đồng hành, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, an toàn cho các giải pháp đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, để Fintech phát triển bền vững, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, tổ chức tín dụng và doanh nghiệp công nghệ, vừa đảm bảo an toàn hệ thống, vừa thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Quan trọng hơn, mỗi bước đi cần tính toán kỹ lưỡng, phù hợp thực tiễn Việt Nam, để Fintech thực sự trở thành “cánh tay nối dài” của ngân hàng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số và mang lại nhiều giá trị thiết thực hơn cho người dân, doanh nghiệp, vì một nền kinh tế phát triển bao trùm, bền vững.
Hà Trang