VẤN ĐỀ VÀNG, TIỀN POLYMER
I. Vấn đề vàng:
1. Thời gian qua việc thực hiện chính sách bình ổn thị trường vàng không theo quy luật thị trường nên không có tác dụng, giá vàng trong nước luôn có độ chênh lệch lớn so với giá vàng thế giới. Đề nghị có giải pháp khắc phục tình trạng này. (Cử tri TP.Hà Nội)
Việt Nam là nước nhập khẩu vàng và chịu nhiều ảnh hưởng từ yếu tố tâm lý, tập quán nắm giữ vàng của người dân. Trong suốt một thời gian dài trước đây, thị trường vàng Việt Nam luôn biến động bất thường và là nhân tố gây bất ổn thị trường ngoại hối, tỷ giá và ổn định kinh tế vĩ mô. Trước bối cảnh đó, NHNN đã trình Chính phủ ban hành Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (Nghị định 24) để tổ chức, sắp xếp lại thị trường vàng, nâng cao vai trò điều tiết của Nhà nước đối với thị trường.
Trên cơ sở khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng đã được xác lập, thời gian qua NHNN đã quyết liệt triển khai các giải pháp đồng bộ để quản lý thị trường vàng theo Nghị định 24 và các biện pháp ngăn chặn ảnh hưởng của giá vàng đến tỷ giá và điều hành chính sách tiền tệ.
Năm 2013, trong bối cảnh thị trường vàng đang biến động phức tạp, NHNN đã kịp thời bình ổn, dẫn dắt thị trường thông qua hoạt động đấu thầu bán vàng miếng, nhờ vậy thị trường vàng trong nước đã phát huy vai trò tự điều tiết, dần trở lại trạng thái cân bằng và ổn định.
Sang năm 2014, mặc dù giá vàng thế giới biến động lớn và phức tạp (có thời điểm giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây) nhưng thị trường vàng trong nước tiếp tục duy trì được xu hướng ổn định, thị trường vàng tự điều tiết, cung cầu vàng miếng tương đối cân bằng, không còn các cơn “sốt vàng” gây bất ổn xã hội. Do đó, NHNN không phải thực hiện can thiệp, bình ổn thị trường thông qua đấu thầu bán vàng miếng.
Với những kết quả đã đạt được, có thể khẳng định, đến nay thị trường vàng đã được sắp xếp lại một cách cơ bản; trật tự, kỷ cương trên thị trường đã được xác lập, tạo tiền đề phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của người dân. Nhờ đó, một phần nguồn vốn nhàn rỗi bằng vàng trong nền kinh tế đã được chuyển hóa thành tiền phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, lạm phát đã được kiểm soát, thị trường tiền tệ và tỷ giá diễn biến ổn định, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng.
Riêng về chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới: Thời gian qua, có một số thời điểm chênh lệch giữa giá vàng trong nước với giá vàng thế giới ở mức khá cao do thị trường vàng thế giới biến động mạnh trong khi thị trường vàng trong nước vẫn duy trì được xu hướng ổn định.Tuy có chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế nhưng không xảy ra các yếu tố gây bất ổn thị trường, nhu cầu mua, bán vàng miếng đã giảm mạnh, không còn hiện tượng bán ra hay mua vào ồ ạt gây xáo trộn thị trường như giai đoạn trước đây. Việc thu hẹp chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới trong ngắn hạn, nhất là khi giá vàng thế giới biến động mạnh, ở chừng mực nào đó sẽ có tác động bất lợi đến ổn định kinh tế vĩ mô vì tạo ra biến động lớn về giá vàng trong nước, tạo điều kiện cho yếu tố đầu cơ xuất hiện.
Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục áp dụng các giải pháp đồng bộ, linh hoạt và hiệu quả để quản lý chặt chẽ thị trường vàng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân; tiếp tục thực hiện mục tiêu chống “vàng hóa” trong nền kinh tế, đảm bảo thị trường vàng diễn biến ổn định, đảm bảo biến động của giá vàng không ảnh hưởng đến tỷ giá, thị trường ngoại hối và sự ổn định kinh tế vĩ mô theo đúng quy định tại Nghị định 24 và chủ trương của Đảng, Nhà nước về quản lý thị trường vàng.
2. Tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác quản lý vàng, ngoại tệ. (Cử tri Sóc Trăng, TP.Hồ Chí Minh)
- Đối với công tác quản lý ngoại tệ:
Bám sát mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đã thực hiện đồng bộ các biện pháp ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ, tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hỗ trợ cho việc thực thi chính sách tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô: (i) Hoàn thiện hành lang pháp lý để quản lý thị trường ngoại tệ1 theo hướng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn; (ii) Điều hành linh hoạt tỷ giá và hoạt động mua bán ngoại tệ kết hợp chặt chẽ với các công cụ chính sách tiền tệ để điều hòa lượng tiền VND cung ứng khi mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối nhà nước nhằm không gây áp lực lên lạm phát và không ảnh hưởng đến điều hành tỷ giá, đồng thời góp phần hỗ trợ thanh khoản và giảm mặt bằng lãi suất cho vay VND; (iii) Theo dõi sát diễn biến thị trường và thực hiện các biện pháp điều hành cần thiết khi thị trường có biến động bất thường như: kịp thời khẳng định quyết tâm duy trì ổn định thị trường ngoại tệ và tỷ giá theo đúng định hướng đã công bố từ đầu năm để ổn định tâm lý thị trường và yêu cầu một số NHTM lớn tăng cường bán ngoại tệ can thiệp, đồng thời NHNN sẵn sàng bán ngoại tệ hỗ trợ thị trường...; (iv) Phối hợp các Bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân một số thành phố lớn và chỉ đạo NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố tăng cường công tác quản lý và thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ...
Với sự nỗ lực, quyết tâm của toàn Ngành, từ cuối năm 2011 đến nay, thị trường ngoại hối và tỷ giá đã cơ bản ổn định và nằm trong biên độ định hướng của NHNN, giúp củng cố lòng tin của thị trường vào khả năng điều hành, dẫn dắt, điều phối thị trường của NHNN. Quy mô dự trữ ngoại hối Nhà nước liên tục tăng và đạt mức kỷ lục từ trước đến nay, hỗ trợ tích cực cho ổn định kinh tế vĩ mô và phục hồi tăng trưởng kinh tế vào các tháng cuối năm, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và giúp nâng mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Đối với công tác quản lý vàng:
Trên cơ sở khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng, thời gian qua, NHNN đã quyết liệt triển khai các giải pháp đồng bộ để quản lý thị trường vàng theo Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và các biện pháp ngăn chặn ảnh hưởng của giá vàng đến tỷ giá, điều hành chính sách tiền tệ.
Đến nay, thị trường vàng đã được sắp xếp lại một cách cơ bản; trật tự, kỷ cương trên thị trường đã được xác lập; vàng không còn là phương tiện thanh toán, cung cầu vàng miếng tương đối cân bằng, thị trường vàng tự điều tiết và NHNN không phải thực hiện can thiệp, bình ổn thị trường thông qua đấu thầu bán vàng miếng, do đó không phải dùng ngoại tệ từ Quỹ dự trữ ngoại hối để mua vàng bình ổn thị trường. Nhờ đó, một phần nguồn vốn nhàn rỗi bằng vàng trong nền kinh tế đã được chuyển hóa thành tiền phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, lạm phát đã được kiểm soát, thị trường tiền tệ và tỷ giá diễn biến ổn định, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Mặc dù, có một số thời điểm chênh lệch giữa giá vàng trong nước với giá vàng thế giới ở mức khá cao do thị trường vàng thế giới biến động mạnh trong khi thị trường vàng trong nước vẫn duy trì được xu hướng ổn định, nhưng thị trường không xảy ra các yếu tố gây bất ổn, không còn hiện tượng bán ra hay mua vào ồ ạt gây xáo trộn thị trường như giai đoạn trước đây.
Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục áp dụng các giải pháp đồng bộ, linh hoạt và hiệu quả để quản lý chặt chẽ thị trường ngoại tệ, vàng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân; tiếp tục thực hiện mục tiêu chống "đô la hóa", "vàng hóa" trong nền kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô theo đúng chủ trương của Đảng, Nhà nước về quản lý thị trường ngoại tệ, vàng.
II. Vấn đề tiền polyme:
1. Tiền giấy loại tờ 500.000 đồng và tờ 20.000 đồng đang lưu thông trên thị trường có màu sắc giống nhau, gây sự nhầm lẫn trong nhân dân. Cử tri đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu có giải pháp khắc phục. (Cử tri tỉnh Ninh Thuận)
Khi thiết kế bộ tiền polymer, NHNN đã sử dụng nhiều giải pháp để phân biệt giữa các mệnh giá, như sử dụng kích thước, màu sắc khác nhau và có cụm số, chữ mệnh giá lớn hơn để dễ nhận biết.
- Về kích thước, các mệnh giá 20.000đ-500.000đ có chiều cao bằng nhau (70mm), chiều dài các mệnh giá liền kề chênh lệch 4mm. Trong đó, mệnh giá 20.000đ có chiều dài 136mm, nhỏ hơn mệnh giá 500.000đ là 16mm (500.000đ dài 152mm).
- Về màu sắc, bộ tiền sử dụng những màu chủ đạo dễ phân biệt, tương phản nhau (màu nóng – màu lạnh), bố trí xen kẽ cho các mệnh giá liền kề. Cụ thể, loại 10.000đ, 50.000đ, 200.000đ có màu nóng (nâu vàng xanh, nâu tím đỏ, đỏ nâu), các mệnh giá 20.000đ, 100.000đ, 500.000đ có màu lạnh (xanh lơ, xanh lá cây, xanh lơ tím). Để tăng cường tính thẩm mỹ và sự hài hòa trong từng mẫu thiết kế, màu sắc ở khu vực giữa đồng tiền cũng được phối màu khác với hai cạnh bên. Ví dụ, khu vực giữa có hòa sắc nóng thì hai cạnh bên có hòa sắc lạnh hoặc ngược lại. Cách phối màu đan xen này tạo ra vẻ đẹp phong phú cho từng đồng tiền.
- Ở trường hợp đồng tiền 500.000đ và 20.000đ, màu sắc hai cạnh bên là khác nhau, khu vực giữa của hai tờ bạc sử dụng những màu sắc ưa nhìn như hồng, cam, tím nhạt, xanh da trời. Mặc dù hai đồng tiền này có sự khác nhau về kích thước, số mệnh giá, đặc điểm bảo an (20.000đ có 1 cửa sổ, 500.000đ có 2 cửa sổ và mực đổi màu,…) nhưng do khu vực giữa của hai đồng tiền có hòa sắc gần giống nhau nên có thể gây nhầm lẫn đối với người sử dụng tiền.
Thời gian qua, NHNN đã tiến hành đánh giá chất lượng đồng tiền polymer, đồng thời, qua khảo sát thực tế đời sống xã hội và tiếp thu ý kiến của người dân, NHNN đã nghiêm túc rút kinh nghiệm và sẽ không để lặp lại hiện tượng tương tự ở những đồng tiền phát hành trong tương lai.
2. Đồng thời, cần nâng cao chất lượng tiền giấy, vì chất lượng tiền giấy Polyme hiện nay chưa tốt, nhanh bị bong tróc. (Cử tri tỉnh Ninh Thuận); Đề nghị giám sát việc in và lưu thông tiền trên thị trường, hiện nay bị xuống cấp, nhem nhuốc và có một số lạo giấy bạc nhỏ thị trường từ chối lưu thông. (Cử tri tỉnh Khánh Hòa)
Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng đồng tiền trong lưu thông, Bộ Chính trị đã phê duyệt việc lựa chọn ứng dụng công nghệ tiền polymer thay cho loại tiền giấy cotton. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị và Thủ tướng Chính phủ, từ năm 2003-2006, NHNN đã phát hành và đưa vào lưu thông các đồng tiền polymer, mệnh giá từ 10.000đ-500.000đ.
(i) Về chất lượng của đồng tiền polymer:
Sau một thời gian lưu hành, qua theo dõi chất lượng đồng tiền trong lưu thông của NHNN và thực tiễn sử dụng đồng tiền polymer, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, Ngành liên quan tiến hành đánh giá, tổng kết và có kết luận: đồng tiền polymer được người dân đón nhận, lưu thông bình thường; chất lượng đồng tiền trong lưu thông có bước cải thiện, độ bền, khả năng chống giả và độ sạch của đồng tiền polymer cao hơn tiền giấy cotton. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đã được xã hội công nhận thì đồng tiền polymer cũng còn một vài hạn chế nhất định như: màu sắc nhạt hơn, nét in có độ nổi thấp hơn tiền cotton…
Thực tế cho thấy đồng tiền dù làm bằng chất liệu nào, trong quá trình lưu thông do nhiều nguyên nhân khác nhau, thì chất lượng đồng tiền sẽ giảm dần theo thời gian. Đối với tiền cotton, sau một thời gian lưu thông, đồng tiền cotton hay bị bẩn, nhàu nát, sờn, rách và thường sau 20-44 tháng sử dụng sẽ phải thu hồi, thay thế; đối với tiền polymer, sau một thời gian sử dụng, do mực in bị mòn, màu sắc của đồng tiền sẽ nhạt hơn, mất một phần hình ảnh, hoa văn trên đồng tiền…nhưng bình quân sau 5-7 năm sử dụng mới phải thay thế2.
Trong thực tế đời sống xã hội, những đồng tiền mệnh giá nhỏ, kể cả 10.000đ, 20.000đ polymer thường ít quay về hệ thống ngân hàng nên không được tuyển chọn, thay thế thường xuyên. Vì nhiều lý do người dùng không nộp vào ngân hàng, Kho bạc Nhà nước những đồng tiền không đủ chất lượng lưu thông để đổi lấy những đồng tiền tốt hơn mà vẫn tiếp tục sử dụng đã làm ảnh hưởng đến hình ảnh của đồng tiền trong lưu thông nói chung.
(ii) Về đề nghị nâng cao chất lượng đồng tiền:
Nhằm nâng cao chất lượng đồng tiền trong lưu thông, NHNN đã ban hành Thông tư số 25/2013/TT-NHNN ngày 2/12/2013 quy định về thu đổi tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông, trong đó, không quy định thu phí đổi tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông để khuyến khích người dân đến ngân hàng đổi lấy những đồng tiền tốt hơn.
Đồng thời, tháng 5/2014, NHNN đã ban hành tiêu chuẩn mới về tiền đủ/không đủ tiêu chuẩn lưu thông làm cơ sở để phân loại, tuyển chọn tiền; tăng cường chỉ đạo, kiểm tra các ngân hàng trong việc chấp hành quy định của NHNN về tuyển chọn, thu đổi tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông; đảm bảo thuận tiện cho nhân dân khi có nhu cầu đổi loại tiền. NHNN cũng sẽ tiếp tục đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền và khuyến khích nhân dân tích cực tham gia làm sạch, đẹp đồng tiền trong lưu thông bằng việc bảo quản, sử dụng đồng tiền hợp lý và chủ động đến các ngân hàng, Kho bạc Nhà nước để đổi lấy tiền đủ tiêu chuẩn lưu thông.
Với vai trò là cơ quan phát hành tiền, NHNN luôn chú trọng thực hiện các giải pháp nhằm ổn định giá trị và nâng cao chất lượng, uy tín của đồng tiền Việt Nam. Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, hiện nay NHNN cũng đang tích cực triển khai thực hiện đầu tư mở rộng, hiện đại hóa thiết bị công nghệ in tiền của Nhà máy in tiền Quốc gia (doanh nghiệp công ích thực hiện nhiệm vụ in tiền thuộc NHNN). Hiện nay, sự phát triển của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ vật liệu đã tạo ra những loại chất liệu in tiền mới. Trước đây chỉ có giấy cotton, polymer thì nay có thêm các chất liệu tổng hợp. NHNN luôn nghiên cứu và cập nhật thông tin về những phát triển mới trong chất liệu, công nghệ in tiền, đề xuất với Bộ Chính trị thay đổi cho phù hợp với thực tiễn nước ta để nâng cao hơn nữa chất lượng cũng như chế tác của đồng tiền, đáp ứng nhu cầu của người dân Việt Nam.
(iii) Một số loại giấy bạc nhỏ thị trường từ chối lưu thông:
Với vai trò là cơ quan phát hành tiền, NHNN có trách nhiệm cung ứng tiền mặt đầy đủ cả về giá trị và cơ cấu mệnh giá đáp ứng yêu cầu thanh toán của nền kinh tế, bao gồm các mệnh giá từ 200đ - 500.000đ.
Theo quy định tại Điều 23, Luật NHNN năm 2010 về các hành vi bị cấm, có hành vi “từ chối nhận, lưu hành đồng tiền đủ tiêu chuẩn lưu thông do NHNN phát hành”. Vì vậy, việc từ chối nhận, lưu hành đồng tiền mệnh giá nhỏ đủ tiêu chuẩn lưu thông trong các giao dịch thanh toán thông thường là hành vi vi phạm pháp luật.
Sau khi nhận được phản ánh của cử tri về hiện tượng người dân từ chối nhận đồng tiền mệnh giá nhỏ trong một số giao dịch thanh toán, NHNN đã tăng cường tuyên truyền, giải thích để người dân hiểu rõ và chấp hành đúng quy định của pháp luật về việc sử dụng và lưu hành đồng tiền mệnh giá nhỏ trong lưu thông.
1 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ngoại hối, Nghị định 50/2014/NĐ-CP về quản lý dự trữ ngoại hối, Thông tư số 32/2013/TT-NHNN ngày 26/12/2013 hướng dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, Thông tư số 16/2014/TT-NHNN ngày 01/8/2014 hướng dẫn sử dụng tài khoản ngoại tệ, tài khoản đồng Việt Nam của người cư trú, người không cư trú tại ngân hàng được phép…
2 Từ năm 2006-2012, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện 9 đợt lấy tiền mẫu trong lưu thông (1-2 lần/năm) để phân tích, đánh giá sự thay đổi về chất lượng và ước lượng tuổi thọ đồng tiền trong lưu thông. Kết quả phân tích cho thấy, đồng tiền polymer nói chung có tuổi thọ bình quân gấp 2,5-3 lần so với tiền cotton cùng mệnh giá.