a) Tên Đề tài: Giải pháp phát triển nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam - mã số DTNH.06/2015
b) Tổ chức chủ trì: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
c) Chủ nhiệm và người tham gia chính:
- Chủ nhiệm: ThS. Nguyễn Thị Thanh Hằng - Phó trưởng phòng, Vụ Chính sách an toàn hoạt động ngân hàng, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, NHNN.
- Thư ký: NCS Phan Hữu Việt - Phó trưởng phòng, Vụ Chính sách an toàn hoạt động ngân hàng, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, NHNN.
- Các thành viên tham gia:
d) Mục tiêu của nhiệm vụ:
Nghiên cứu lý luận về nghiệp vụ bao thanh toán và thông lệ quốc tế liên quan đến hoạt động bao thanh toán; Nghiên cứu thực trạng hoạt động bao thanh toán của hệ thống các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, những nguyên nhân khiến hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam hiện nay chưa phát triển; Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam.
đ) Thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc:
- Thời gian bắt đầu: Tháng 02/2015.
- Thời gian kết thúc: Tháng 07/2016.
e) Kinh phí thực hiện: 220 triệu đồng.
g) Kết quả thực hiện:
Nhằm mục tiêu đưa ra được một bức tranh toàn cảnh về thực trạng hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam trong vòng 5 năm trở lại đây, tham khảo kinh nghiệm, thông lệ quốc tế quy định về hoạt động bao thanh toán và phát triển thị trường bao thanh toán để từ đó đề xuất nhóm các giải pháp đồng bộ nhằm phát triển hơn nữa hoạt động bao thanh toán ở nước ta, đề tài DTNH.06/2015 được cấu trúc thành 03 chương với các nội dung cụ thể như sau:
Chương 1 của đề tài nghiên cứu lý luận và thông lệ quốc tế liên quan đến hoạt động bao thanh toán, bao gồm khái niệm, các hình thức bao thanh toán; lợi ích, rủi ro và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động bao thanh toán; quy định về hoạt động bao thanh toán của một số nước trên thế giới. Nghiên cứu tại chương 1 cho thấy khung khổ pháp lý cho hoạt động bao thanh toán tại các quốc gia trên thế giới cho thấy khoảng cách về sự phát triển trong hoạt động bao thanh toán tại các quốc gia phát triển và đang phát triển. Thông lệ quốc tế có đã có một số quy định sau: (1) Quy định về điều kiện thành lập đơn vị bao thanh toán gồm có: hình thức pháp lý cơ cấu sở hữu của đơn vị bao thanh toán, mức vốn điều lệ tối thiểu, kinh nghiệm quản lý và cơ sở vật chất tối thiểu, quy định nội bộ; (2) Quy định về hoạt động và đảm bảo an toàn trong hoạt động của đơn vị bao thanh toán; (3) Quy định về việc đăng ký thông tin về khoản phải thu; (4) Quy định về hệ thống quản trị rủi ro… Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu đặc điểm hoạt động bao thanh toán và khảo sát khung khổ pháp lý cho hoạt động bao thanh toán tại các quốc gia trên thế giới là nguồn tham khảo quan trọng giúp cơ quan quản lý có định hướng sửa đổi, hoàn thiện cơ chế, chính sách và các Bộ, ngành có liên quan phối hợp với nhau trong hoạt động quản lý Nhà nước về hoạt động này để phát triển hơn nữa tiềm năng của hoạt động bao thanh toán ở Việt Nam.
Chương 2 nghiên cứu thực trạng hoạt động bao thanh toán của hệ thống các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm: Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động bao thanh toán ở Việt Nam; Tình hình hoạt động bao thanh toán của các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam; Nguyên nhân dẫn đến hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam chưa phát triển và Triển vọng phát triển nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu tại đây cho thấy một số vấn đề như: (i) Phần lớn các đơn vị bao thanh toán chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này, (ii) Hiện tại chưa nhiều (khoảng 18,6%) đơn vị bao thanh toán sử dụng nghiệp vụ bao thanh toán xuất nhập khẩu trong giao thương quốc tế, (iii) Không nhiều (khoảng 14%) đơn vị bao thanh toán có mối liên hệ hoặc là thành viên của các Hiệp hội bao thanh toán quốc tế, (iv) Một số đơn vị bao thanh toán chưa có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực để triển khai bao thanh toán, (v) Thời hạn bao thanh toán ở Việt Nam dài hơn nhưng số tiền ứng trước/giá trị khoản phải thu tương đồng với các nước Châu Âu, (vi) Mức độ rủi ro của khoản phải thu và độ dài thời hạn bao thanh toán đóng vai trò quyết định mức phí mà đơn vị bao thanh toán áp dụng cho khách hàng, (vii) Dư nợ bao thanh toán của hệ thống còn rất khiêm tốn trong tổng dư nợ cấu tín dụng, (viii) Một số hạn mức rủi ro đã được áp dụng cho hoạt động bao thanh toán, (ix) Bao thanh toán bên bán hàng phù hợp với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, SMEs, doanh nghiệp có uy tín, (x) Rủi ro đối với khoản phải thu (rủi ro tín dụng) là rủi ro trọng yếu của hoạt động bao thanh toán, tiếp đó, rủi ro tỷ giá liên quan tới hoạt động bao thanh toán quốc tế (rủi ro thị trường). Tuy nhiên, quy định về an toàn cho hoạt động bao thanh toán ở Việt Nam có phần ít chặt chẽ hơn so với quy định của một số nước trên thế giới.
Tại chương 3, nhóm nghiêm cứu tập trung vào việc đề xuất các giải pháp phát triển hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam, bao gồm giải pháp về cơ chế, chính sách và các giải pháp đối với các TCTD. Theo đó, trong ngắn hạn Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động bao thanh toán thông qua việc ban hành một Thông tư thay thế Quyết định số 1096 để hướng dẫn về hoạt động bao thanh toán phù hợp với quy định mới tại Luật Tổ chức tín dụng. Thông tư thay thế Quyết định số 1096 cần phải đảm bảo xử lý được các vướng mắc trong quy định bao thanh toán hiện nay để tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển, bao gồm: (i) giải thích quy định "bảo lưu quyền truy đòi" trong khái niệm bao thanh toán, (ii) hướng dẫn cụ thể hoạt động bao thanh toán bên mua, (iii) bổ sung quy định về quy trình bao thanh toán qua mạng điện tử, (iv) sửa yêu cầu cung cấp hợp đồng gốc (hoặc bản sao có chứng thực) tại quy định hiện hành, (v) nhanh chóng thay đổi giấy phép để cho phép các ngân hàng thương mại được thực hiện bao thanh toán mà không cần phải xin phép. Trong trung, dài hạn, NHNN cần chú trọng các vấn đề sau:
(i) Sửa khái niệm bao thanh toán quy định tại Luật các tổ chức tín dụng, đảm bảo khái niệm đưa ra phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo đó, bao thanh toán không được coi là một hình thức cấp tín dụng mà nên coi là một hình thức tài trợ thương mại.
(ii) Bổ sung quy định về “bao thanh toán không có quyền truy đòi”. Yêu cầu “bảo lưu quyền truy đòi” đã làm giảm tính hấp dẫn của dịch vụ khi các doanh nghiệp không thể chuyển rủi ro sang cho các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Vì vậy, Nhóm nghiên cứu cho rằng trong trung hạn, khi sửa Luật các tổ chức tín dụng 2010 cần sửa đổi quy định về bao thanh toán để cho các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được quyền lựa chọn thực hiện hình thức bao thanh toán có hoặc không có quyền truy đòi tuỳ theo đánh giá về mức độ rủi ro của khách hàng.
(ii) Khuyến khích thành lập các công ty tài chính bao thanh toán chuyên ngành.
(iii) Khuyến khích thành lập Trung tâm đăng ký giao dịch bao thanh toán nhằm kết nối bên bán hàng, đơn vị bao thanh toán và bên mua hàng trong giao dịch bao thanh toán.
(iv) Nghiên cứu, đánh giá rủi ro hoạt động bao thanh toán đối với từng loại hình tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để từ đó điều chỉnh những tỷ lệ an toàn hiện có hoặc quy định những tỷ lệ an toàn mới nhằm đảm bảo hoạt động an toàn, ổn định của các đơn vị này. Bên cạnh đó, cũng cần có sự phối hợp của các bộ, ngành liên quan để thực hiện việc giới thiệu rộng rãi hoạt động bao thanh toán đến các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và triển khai sàn giao dịch bao thanh toán tại Việt Nam.
Đối với các TCTD, cần có sự thay đổi về nhận thức đối với hoạt động Bao thanh toán; Mở rộng quan hệ ngân hàng đại lý trong và ngoài nước và tham gia Hiệp hội bao thanh toán quốc tế; Hoàn thiện quy định nội bộ về hoạt động bao thanh toán; Nâng cao hiệu quả khâu thẩm định chất lượng khoản phải thu và bên mua hàng, đặc biệt cần nâng cao kỹ năng thẩm định hợp đồng thương mại; Đẩy mạnh công tác marketing, giới thiệu, quảng bá dịch vụ bao thanh toán tới khách hàng mạnh mẽ, sâu rộng và hiệu quả; Thành lập bộ phận chuyên trách thực hiện triển khai, tư vấn phục vụ khách hàng và phát triển sản phẩm bao thanh toán, đặc biệt trong việc thẩm định các hợp đồng thương mại giữa bên bán hàng và bên mua hàng; Xây dựng kế hoạch, lộ trình phát triển cụ thể cho hoạt động bao thanh toán; Mở rộng tiếp cận dịch vụ bao thanh toán đến các đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ; Đào tạo đội ngũ nhân viên am hiểu hoạt động bao thanh toán.
Đề tài được Hội đồng tư vấn đánh giá nghiệm thu kết quả thực hiện xếp loại Giỏi.