1
a) Tên Đề án: Đánh giá tác động của dịch covid-19 đến hệ thống ngân hàng Việt Nam - Mã số: ĐANH.001/20
b) Tổ chức chủ trì: Học viện Ngân hàng.
c) Chủ nhiệm và người tham gia chính:
- Chủ nhiệm: PGS.TS. Phạm Thị Hoàng Anh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng..
- Thư ký: TS. Phạm Mạnh Hùng - Trưởng Phòng Nghiên cứu khoa học và Tư vấn, Viện Nghiên cứu khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng
- Thành viên tham gia:
d) Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Tác động của dịch COVID-19 đến nền kinh tế Việt Nam;
- Tác động của dịch COVID-19 đến ngành Ngân hàng Việt Nam và các giải pháp đã triển khai;
- Một số khuyến nghị chính sách.
đ) Thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc:
- Thời gian bắt đầu: Tháng 9/2020
- Thời gian kết thúc: Tháng 05/2021
e) Kinh phí thực hiện: 240 triệu đồng.
g) Kết quả thực hiện: Giỏi
h) Mô tả tóm tắt:
Nhằm mục tiêu đánh giá tác động của dịch COVID-19 tới nền kinh tế Việt Nam, đến hoạt động điều hành của NHNN Việt Nam và hoạt động của NHTM để đề xuất các vấn đề nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của dịch COVID-19 đến ngành ngân hàng trong giai đoạn hậu COVID-19, đề án ĐANH.001/20 đã triển khai nghiên cứu các nội dung cụ thể như sau:
Chương 1 đánh giá tác động của dịch COVID-19 đến nền kinh tế Việt Nam, gồm tác động của dịch COVID-19 đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, đến các ngành kinh tế, đến doanh nghiệp và đỏi sống dân cư. Số liệu phân tích tại Chương 1 cho thấy kinh tế Việt Nam 2020 chịu cú sốc mạnh từ cả 2 phía; tăng trưởng GDP năm 2020 chỉ đạt khoảng 2,91%, giảm 4,52 điểm % so với năm 2019 (7,02%) và là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ sau đổi mới. Tuy vậy, Việt Nam vẫn được đánh giá là nền kinh tế có sức chống chịu thuộc nhóm tốt nhất khu vực và thế giới xét về khả năng duy trì tăng trưởng. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước suy giảm doanh thu và lợi nhuận dưới tác động của dịch COVID-19. Số lượng doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, giải thể, phá sản tăng mạnh chưa từng có. Khó khăn khu vực doanh nghiệp phi tài chính được dự kiến còn kéo dài và phức tạp. Về tình hình lao động, việc làm và thay đổi về ngành nghề, trong năm 2020, cả nước ghi nhận 32,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch COVID-19. Nhiều lao động rơi vào tình trạng không có việc làm hoặc buộc phải trở thành lao động có việc làm phi chính thức.
Chương 2 đánh giá tác động của dịch covid-19 đến ngành ngân hàng Việt Nam và các giải pháp đã triển khai. Theo đó, NHNN chủ động, linh hoạt trong ban hành các chính sách, giải pháp hỗ trợ khách hàng khắc phục khó khăn, chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt và chuyển đổi số trong ngành ngân hàng, điều hành linh hoạt tỷ giá...
Đối với hoạt động của các NHTM, trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát của Quốc hội và Chính phủ, NHNN đã xây dựng định hướng tăng trưởng tín dụng cả năm khoảng 14% và sớm có văn bản thông báo chỉ tiêu tăng trưởng cho các TCTD để tổ chức triển khai, đồng thời theo dõi sát tình hình thực hiện của các TCTD để có điều chỉnh phù hợp với thực tế. Bên cạnh đó, chỉ đạo các TCTD nâng cao chất lượng tín dụng; tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; Kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro , tín dụng tiêu dùng và cho vay bằng ngoại tệ.
Về an toàn hoạt động ngân hàng, tỷ lệ CAR của hệ thống ngân hàng trong năm 2020 về cơ bản khá ổn định so với giai đoạn trước đại dịch. Như vậy có thể thấy, với nỗ lực tự thân từ phía các TCTD cùng một loạt các can thiệp chính sách kịp thời từ NHNN về các giải pháp bù đắp vốn thiếu hụt, toàn ngành đã dần thiết lập lại trạng thái an toàn vốn đáp ứng mức tối thiểu theo quy định tại các Thông tư số 41/2016/TT-NHNN và số 22/2019/TT-NHNN.
Đánh giá chung cho thấy việc can thiệp sớm và kịp thời của NHNN là bài học chủ yếu giúp thị trường tài chính tiền tệ vẫn thực hiện hiệu quả vai trò luân chuyển tiền tệ kể cả trong giai đoạn khó khăn. Từ đó, hoạt động điều hành của NHNN và thực thi của các tổ chức tín dụng trong giai đoạn vừa qua đã thành công trong việc đối phó khủng hoảng.
Tại Chương 3, nhóm nghiên cứu đưa ra các dự báo về diễn biến dịch covid-19 trong giai đoạn tới, dự báo về kinh tế vĩ mô trên thế giới và Việt Nam, dự báo về tác động của dịch COVID-19 đến ngành ngân hàng. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị việc triển khai các biện pháp, chính sách hỗ trợ và giải cứu, cụ thể:
- Đối với các gói giải pháp cứu trợ:
+ Cần chuẩn bị cho các biện pháp, chính sách xử lý cho tình huống nghiêm trọng hơn.
+ Cần tập trung không chỉ hỗ trợ khả năng thanh khoản mà còn là khả năng thanh toán (tồn tại hay phá sản) của các doanh nghiệp và các các ngân hàng có tầm quan trọng hệ thống.
+ Cần đảm bảo cân bằng giữa tình trạng lành mạnh của ngân hàng và việc hỗ trợ doanh nghiệp.
- Đối với công tác xử lý nợ xấu, NHNN cần thực hiện các giải pháp:
+ Tăng cường giám sát tình hình hoạt động của các TCTD, trong đó lưu ý giám sát chặt chẽ diễn biến nợ nhóm 2, nợ xấu và các khoản nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu, nợ xấu của các ngành có nguy cơ rủi ro cao.
+ Chỉ đạo các TCTD xây dựng kế hoạch xử lý nợ xấu; đẩy mạnh thực hiện các biện pháp, giải pháp xử lý nợ xấu triệt để;
+ Ban hành các văn bản chấn chỉnh, cảnh báo trong đó yêu cầu các TCTD kiểm soát chất lượng tín dụng, tích cực xử lý nợ xấu và hạn chế nợ xấu mới phát sinh;
+ Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, các địa phương trong việc tháo gỡ khó khăn của TCTD trong công tác xử lý nợ xấu, đặc biệt là liên quan đến việc áp dụng thủ tục hành chính trong xử lý nợ xấu, xử lý TSĐB, giải quyết tranh chấp, đảm bảo an ninh, trật tự trong quá trình thu giữ TSĐB theo Nghị quyết 42.
- Đối với công tác phân tích, dự báo, cần thường xuyên cập nhật, theo dõi sát sao tình hình diễn biến của dịch bệnh; nắm bắt đầy đủ, kịp thời sự thay đổi và tác động của chính sách các nước; tăng cường công tác phân tích, dự báo diễn biến nợ xấu, nợ xấu tiềm ẩn, tình hình sản xuất kinh doanh các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế, đặc biệt là các ngành, lĩnh vực dễ bị tổn thương với dịch bệnh.
- Đối với thực thi chính sách tiền tệ, tín dụng, cần bám sát diễn biến và tác động của dịch bệnh đối với tăng trưởng, lạm phát, tín dụng để chủ động điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp, kịp thời, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ kiểm soát lạm phát; tiếp tục thực hiện các biện pháp điều hành lãi suất theo hướng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, cụ thể là hỗ trợ doanh nghiệp, cá nhân/hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19; có lộ trình rõ ràng về cơ cấu lại thời hạn trả nợ nhằm hạn chế các rủi ro có thể xẩy ra đối với hệ thống ngân hàng; tiếp tục điều hành tỷ giá theo hướng linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường trong và ngoài nước....
- Đối với thực thi chính sách an toàn hệ thống ngân hàng, cần sớm hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung Thông tư 01/2020/TT-NHNN, bảo đảm phù hợp thực tiễn và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, TCTD tháo gỡ khó khăn, khôi phục kinh tế; Tập trung chỉ đạo các TCTD triển khai mạnh mẽ, quyết liệt các giải pháp cơ cấu lại nợ, cho vay mới, giảm lãi suất, phí...; Yêu cầu 16 TCTD thuộc danh sách TCTD có tầm quan trọng hệ thống theo Quyết định 22/QĐ-NHNN ngày 19/3/2020 của Thống đốc NHNN xây dựng các kịch bản và kế hoạch xử lý trong trường hợp tác động của dịch bệnh đến kết quả hoạt động và sự lành mạnh của TCTD... Đồng thời, tiếp tục rà soát, nghiên cứu, trình Chính phủ Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025.
Đối với các NHTM, nhóm nghiên cứu đưa ra khuyến nghị về việc đẩy mạnh xử lý nợ xấu; Tập trung thực hiện các biện pháp cắt giảm chi phí; Đẩy nhanh tiến trình số hóa ngành ngân hàng và thúc đẩy mạnh hơn hơn xu hướng Bigtech thâm nhập vào thị trường tài chính; Thiết kế lại hệ thống mạng lưới; Điều hành tăng trưởng tín dụng theo hướng thận trọng, phù hợp với sức hấp thụ vốn của nền kinh tế; Ưu tiên cấp tín dụng cho các khách hàng truyền thống, hiệu quả, dành nguồn lực phù hợp cho khách hàng khó khăn... Trong trung và dài hạn, các ngân hàng cần nghiên cứu kỹ các xu hướng phục hồi của nền kinh tế, nhận diện những thay đổi trong nhu cầu của khách hàng, phát hiện những nhu cầu mới, để từ đó có những điều chỉnh, phát triển hoạt động kinh doanh phù hợp; Thực hiện tiết giảm chi phí thông qua xây dựng phương án tái cơ cấu, cắt giảm chi phí, điều chỉnh nhân sự giữa các đơn vị theo hướng tối ưu hóa nguồn lực. Các TCTD (nhất là các ngân hàng có vốn nhà nước, ngân hàng có quy mô lớn, phát triển lâu đời…) hướng đến xây dựng mô hình kinh doanh cũng như tốc độ xử lý các công việc linh hoạt hơn, gọn nhẹ hơn./.